(Baonghean.vn) - Tháng 2/1968 sau khi tốt nghiệp khoá 7 – Lớp đào tạo phóng viên do Việt Nam Thông tấn xã (nay là Thông tấn xã Việt Nam) phối hợp cùng Ban Tuyên giáo Trung ương và Tổng cục Thông tin đào tạo, tôi được Bộ biên tập Việt Nam Thông tấn xã cử vào thường trú tại tỉnh Nghệ An với nhiệm vụ là một phóng viên chiến sự.
Phân xã VNTTX được Tỉnh uỷ Nghệ An xếp cùng ở và sinh hoạt với Ban Tuyên giáo tỉnh, lúc đầu đóng tại xã Thượng Sơn sau lại chuyển đến xã Hiến Sơn thuộc huyện Đô Lương, một huỵên thuộc vùng bán sơn địa. Vào thời điểm này Mỹ tăng cường đánh phá Miền Bắc bằng không quân, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Xã Hiến Sơn ( nơi chúng tôi sơ tán) chỉ cách trọng điểm Truông Bồn xã Mỹ Sơn, huyện Đô Lương chừng 3 km đường chim bay. Phải nói rằng không có một ngày nào, giờ nào ngớt tiếng máy bay Mỹ gầm rú trên bầu trời Nghệ An đặc biệt là nút giao thông Truông Bồn. Từ “Truông” theo tiếng địa phương của người Nghệ Tĩnh có nghĩa là đèo dốc ( giống như dốc Pha Đin hay đèo Lũng Lô vậy). Truông Bồn nơi được gọi là trọng điểm, là “ túi bom”, là “ cửa tử” cách thị trấn Đô Lương 15km, nơi giáp ranh giữa hai huyện Đô Lương và Nam Đàn của tỉnh Nghệ An. Đây là một đoạn đường độc đạo dài chừng 5km trên tuyến đường 15A, tuyến đường nối từ Bắc vào Nam, là con đường huyết mạch quan trọng bậc nhất của hậu phương Miền Bắc tiếp tế mọi mặt cho chiến trường Miền Nam.
Truông Bồn có đoạn lọt giữa hai sườn đồi, có đoạn một bên là đồi một bên là ruộng nước giống như một cửa ải rất dễ bị vùi lấp, tắc nghẽn không thể vượt qua khi bom Mỹ ném trúng. Tại trọng điểm Truông Bồn hầu như không có ngày nào (suốt cả ngày lẫn đêm) ngớt tiếng bom Mỹ dội. Tại đây cùng với gần 1.300 chiến sỹ TNXP và một số lực lượng đảm bảo giao thông khác, tiểu đội 2 mà sau này được đặt tên là “ Tiểu đội thép” thuộc C317 của Đội TNXP 300 tỉnh Nghệ An đã đêm ngày bám trụ để đảm bảo giao thông với khẩu hiệu “Sống bám cầu, bám đường, chết kiên cường dũng cảm”.
Cho đến ngày 31/10/1968 cả tiểu đội đều lập công xuất sắc, đã được Bác Hồ tặng lẵng hoa và Trung ương Đoàn tặng cờ Nguyễn Văn Trỗi. Nhiều chiến sỹ đã được tặng danh hiệu “ Chiến sỹ thi đua” và được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam... Cũng vào thời điểm này- thời điểm cả tiểu đội đã hoàn thành nhiệm vụ, chuẩn bị xuất ngũ. Một số chị em đã có giấy gọi vào học tại các trường Đại học hoặc Trung học chuyên nghiệp, có người đã tìm thấy một nửa của mình ngay tại đơn vị, chỉ còn chờ ngày về quê tổ chức đám cưới như trường hợp chị Nguyễn Thị Tâm quê ở xã Hợp Thành huyện Yên Thành và anh Cao Ngọc Hoà ở xã Diễn Lộc huyện Diễn Châu...
Tôi đã có 2 lần sang viết tin, chụp ảnh tiểu đội 2, được mệnh danh là “Tiểu đội thép”. Ngày 31/10/1968, vì có quen biết từ trước nên đợt sau tôi đi một mình. Hôm đó khi tôi tới Truông Bồn thì đã thấy các chiến sỹ tiểu đội 2 đang hối hả san lấp hố bom về phía cuối truông, nơi có sườn đồi thấp và một bên là ruộng nước hoang hoá. Chưa khai thác tài liệu và sẵn hiện trường đang tấp nập tôi tiến hành tác nghiệp ngay. Vừa chụp ảnh tôi vừa nghe ngóng động tĩnh. Chụp đến kiểu phim thứ 10 bằng chiếc máy RolleiFlex , thấy tài liệu đã ổn, tôi nói với tiểu đội trưởng Trần Thị Thông là tập hợp cả tiểu đội lại tôi chụp ảnh kỷ niệm cho. Chị em trong tiểu đội ai cũng thích, cũng muốn chụp nhưng tiểu đội trưởng Thông lại lưỡng lự. Thông cảm ơn tôi và đưa ra 2 lý do không nên chụp ảnh kỷ niệm lúc này: một là phải nhanh chóng lấp hố bom để thông xe, hai là muốn đảm bảo an toàn cho tôi.
Hôm đó vào lúc 4 giờ sáng 14 chiến sỹ của “Tiểu đội thép” nhận được lệnh của cấp trên, sẵn sàng lao ra hiện trường để san lấp những hố bom Mỹ vừa đánh phá trong đêm ở phía bắc truông, chỉ còn 1 chiến sỹ ở lại trông lán. Họ bước vào cuộc chiến đấu (không ai nghĩ sẽ là trận cuối cùng) với một quyết tâm cao và vui vẻ như thường, quyết thông xe trước khi trời sáng. Sau 2 tiếng đồng hồ lao động cật lực, các hố bom đã cơ bản được lấp xong. Họ chỉ còn rải thêm đá hộc vào những chỗ đất ướt có thể làm cho xe bị trượt bánh nữa là về lán nghỉ ngơi.
Nhưng cũng đúng vào khoảnh khắc ấy, vào lúc hơn 6 giờ đột nhiên một tốp máy bay Mỹ lao tới dội bom tới tấp vào vị trí đơn vị vừa thi công. Tiểu đội trưởng Trần Thị Thông (vai đeo súng) chỉ kịp hô “ cả tiểu đội vào hầm trú ẩn” thì một loạt bom của giặc đã rơi trúng đội hình tiểu đội. Khi khói bom vừa tan, lực lượng cứu hộ của đơn vị bạn đến hiện trường thì chỉ nhìn thấy những hố bom chằng chịt và sự im lặng đến rợn người. Lực lượng cứu hộ chia nhau đi tìm và đào bới khắp nơi nhưng cũng không tìn thấy một ai. May thay có người phát hiện có một nòng súng trồi lên bên cạnh một hố bom, mọi người nhanh tay đào bới và kéo lên được một nữ chiến sỹ đã gần tắt thở vì ngạt. Họ sơ cứu rồi đưa ngay đến bệnh viện dã chiến ở gần đấy, người chiến sỹ đã được cứu sống chính là tiểu đội trưởng Trần Thị Thông – người anh hùng của tiểu đội thép anh hùng.
Tuy tấm phim (cỡ 6x6) đã bị mốc lấm tấm và xây xước một vài chỗ nhưng tôi mừng đến rơi nước mắt, bởi lẽ đây là một kỷ vật duy nhất của tôi về tiểu đội thép anh hùng. Tôi cũng tự an ủi mình rằng rồi đây khi bức ảnh này được công bố, được đăng tải trên một số phương tiện thông tin thì cũng coi như tôi đã trả được món nợ đời với những người Anh hùng trong huyền thoại Truông Bồn. Còn hơn thế, có lẽ đây là một trong số kiểu phim ít ỏi và quý giá nhất trong cuộc đời làm báo và 44 năm cầm máy ảnh của tôi.
Trần Hải
(ghi lại lời NSNA Phùng Triệu)