Đám cưới lớn, chuẩn bị chu đáo thì trong quả lễ đầy ắp buồng cau trăm quả, trầu trăm lá; đám cưới nhỏ, chuẩn bị đơn sơ cũng chẳng thể thiếu chùm cau với mớ trầu đặt vừa đĩa.
Từ ngàn xưa cho đến tận bây giờ, dù đám cưới theo phong tục miền Bắc – Trung – Nam hay thậm chí cưới nhau tận bên tây thì đám cưới người Việt cũng không thể thiếu mâm trầu cau.
Người xưa cho rằng, cây cau có thân tròn, chắc, thẳng đứng là biểu tượng của người con trai, còn lá trầu hình tam giác bầu bĩnh xoè ngang trên mặt đất như biểu tượng của người con gái. Dây trầu leo quấn quít quanh thân cau cũng là biểu tượng cho tình yêu bền chặt. Trầu cau ăn với một chút vôi thì tạo được một màu đỏ hồng như màu máu, màu son – màu đỏ biểu tượng cho sự thuỷ chung.
Trong dân gian vẫn truyền khẩu với nhau: “Miếng trầu ăn kết làm đôi/Lá trầu là vợ, cau tươi là chồng/Trầu xanh, cau trắng, chay hồng/Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên...”. Với người con gái, cau trầu còn được coi là biểu tượng của sự tiếp đón danh giá để họ tự hào suốt đời, để họ được danh chính – ngôn thuận dạy bảo con cháu, người dưới và kể cả những bà “vợ lẽ sau này”. Những cô gái được hỏi cưới với “tay mang trầu, đầu đội lễ” có quyền và có trách nhiệm với nghĩa vụ vợ hiền, dâu thảo.
Ở những làng quê xưa, sau lễ ăn hỏi, nhà gái thường dùng cau trầu, trà bánh mà nhà trai đã mang sang, chia ra từng gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng... như một lời loan báo: con gái trong nhà đã có nơi có chỗ.
Cau trầu ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi lối sống, suy nghĩ và phong cách của người hiện đại. Khi chuẩn bị đám cưới, gần như sự lo lắng chỉ dành cho phần “vật chất” như đặt tiệc nhà hàng, chụp hình, thuê áo, thuê xe, in thiệp…
Bà Bích Ngọc, chủ sạp 1113 chuyên bán cau trầu Bà Điểm ở chợ Bến Thành, gia đình đã có ba đời chuyên nghề têm trầu, kết buồng cau cho lễ dạm ngõ – hỏi – cưới từ những năm 1940 đến nay cho biết: “Giờ đây người ta làm lễ trầu cau theo hình thức ước lệ là chủ yếu, vì ít người ăn, nên gần như mâm quả cho các lễ đều giao khoán hẳn cho dịch vụ”.
Vậy thế nào là quả lễ cau trầu hiện đại mà vẫn đúng theo lễ? Bà Bích Ngọc, lấy kinh nghiệm từ những khách hàng và truyền thống bán hàng của gia đình chỉ dẫn: do người Sài Gòn hiện nay đã không còn tục lệ chia quà của nhà trai cho họ hàng, xóm giềng nên khay cau trầu chỉ cần 6 miếng trầu têm và quả cau bổ làm 6. Đáng chú ý là theo tục lệ miền Bắc, trầu phải têm cánh phượng, lá trầu phải là loại trầu cay màu xanh dày lá, vôi dùng loại vôi Bắc màu trắng và thuốc thường dùng kèm là thuốc lào, và loại vỏ đỏ. Theo tục lệ miền Nam trầu têm kiểu bánh ú, lá trầu là loại trầu ngọt (thường dùng trầu Bà Điểm) đi với vôi đỏ, thuốc lá và vỏ giấy.
Nếu lễ hỏi tổ chức có đông người tham dự, và để quay phim chụp hình cho đẹp, đi kèm theo khay trầu têm còn có một quả lễ gồm buồng cau và trầu đầy ắp, có thể từ vài chục đến vài trăm quả – nhưng phải là số chẵn – có đôi có cặp. Cách tính số lượng cau trầu: 1 quả cau = 2 lá trầu. Ngoài ra, người miền Bắc theo kiểu hiện đại đang chuộng buồng cau 105 quả theo cách nói “trăm năm hạnh phúc”. Người miền Nam chọn buồng cau 60 quả theo cách ví von “60 năm cuộc đời”.
Theo tục lệ Việt Nam, để hoàn tất một đám cưới, phải có đủ 6 lễ, gọi là Lục Lễ: 1. Nạp thái: nhà trai nhờ người đến nhà gái ướm ý rằng muốn kén chọn con gái nhà ấy làm dâu. 2. Vấn danh: nhà trai nhờ mối lái đến hỏi tên họ và ngày sanh của cô gái (để xem xung hay hạp). 3. Nạp cát: nhà trai báo cho nhà gái đã xem tuổi, xem quẻ, mọi chuyện tốt đẹp và muốn tiến hành hôn lễ. 4. Nạp tệ (nạp Trưng): nhà trai đem sính lễ tới nhà gái để làm lễ từ đường và ra mắt. Lễ này thông thường gọi là lễ hỏi. 5. Thỉnh kỳ: nhà trai xin nhà gái định ngày rước dâu. 6. Thân nghinh: lễ rước dâu về nhà trai, tức là lễ cưới. Nhiều người tin rằng, chọn cau theo buồng 60 quả còn là biểu trưng cho cách tính "sanh – lão – bệnh – tử – sanh – lão", sẽ giúp đôi vợ chồng sống với nhau đến đầu bạc răng long, vượt qua được tất cả những khó khăn tật ách của đời sống". |