“Khơi thông” cho công tác cai nghiện ma túy bắt buộc
Triển khai thực hiện quy định này, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 35/2016/QĐ-UBND ngày 09/5/2016 ban hành Quy chế phối hợp lập hồ sơ, xem xét, quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Theo đó, liên ngành LĐ-TB&XH, Y tế, Tư pháp, Tài chính, Công an, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đã ban hành Hướng dẫn liên ngành số 2171/HDLN ngày 03/9/2019.
Hai văn bản này đã “khơi thông” cho công tác cai nghiện ma túy bắt buộc của Nghệ An. Nếu như năm 2014, 2015 số hồ sơ thụ lý tại tòa án các địa phương chỉ “đếm trên đầu ngón tay” thì năm 2016 đã có 700 trường hợp được Tòa án ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tiếp đó, năm 2017 là 1.112 trường hợp và năm 2018 là 1.034 trường hợp.
Trong quá trình triển khai đưa người nghiện ma túy đi cai nghiện bắt buộc, công tác lập hồ sơ, xét duyệt, quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc cơ bản thực hiện đúng đối tượng, được sự đồng thuận của nhân dân cũng như người bị xử lý và nhân thân, gia đình của họ.
Việc áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc góp phần quan trọng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với hành vi mua bán, tàng trữ, sử dụng ma túy, giữ vững ổn định trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương và chung cả tỉnh.
Tuy nhiên, quá trình lập hồ sơ, xem xét, quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy cũng bộc lộ hạn chế, khó khăn, vướng mắc.
Đó là tình trạng người nghiện ma túy trốn tránh việc phải đưa vào các cơ sở cai nghiện tập trung nên khi công an xã xác định được đối tượng nghiện và lập hồ sơ thì đối tượng đã tìm mọi cách để vắng mặt tại địa bàn.
Đơn cử huyện Tương Dương đã áp dụng hình thức này đối với 611 đối tượng đưa vào cai nghiện bắt buộc tính từ 01/01/2017 đến 31/3/2019. Và theo quy định trước khi tòa án đưa ra quyết định đưa đối tượng đi cai nghiện bắt buộc thì phải tổ chức một phiên họp có sự tham gia của chính đối tượng.
Tuy nhiên ở Tương Dương, các phiên họp này hầu hết đều vắng mặt đối tượng (do ở tại các cơ sở cai nghiện). Điều này không đảm bảo quyền của đối tượng về quyền được thông báo, được đọc hồ sơ, được cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh mình không vi phạm, giải trình, tranh luận tại phiên họp...
Còn ở huyện Quỳ Châu, khi Tòa án nhân dân huyện ra quyết định cai nghiện bắt buộc đều có mặt đối tượng tại phiên họp. Song khi thực hiện đúng quy định này, Công an huyện Quỳ Châu phải đưa đối tượng từ cơ sở cai nghiện ở huyện Nghĩa Đàn về trụ sở Tòa án huyện Quỳ Châu để tham gia phiên họp, họp xong lại đưa trở về Nghĩa Đàn, rất tốn kém chi phí và công sức.
Tòa án nhân dân thành phố Vinh lại có cách làm khác là tổ chức phiên họp ngay tại cơ sở cai nghiện tập trung để có đối tượng tham gia. Tuy nhiên với cách làm này, theo Tòa án nhân dân thành phố Vinh, khi cán bộ tư pháp xuống tại các cơ sở cai nghiện để tổ chức các phiên họp sẽ làm giảm uy nghiêm của hoạt động tư pháp.
Mặt khác, do trình tự, thủ tục lập hồ sơ trải qua nhiều khâu nên thời gian đối tượng lưu giữ tại các cơ sở cai nghiện trước khi có quyết định của tòa án là khá dài (20 - 35 ngày), cho nên đã tạo gánh nặng cho các cơ sở cai nghiện về chi phí tiền ăn, tiền thuốc chữa bệnh, quần áo, vật dụng cá nhân cần thiết...
Nhiều trường hợp đối tượng đã bị lưu giữ tại cơ sở cai nghiện nhưng Tòa án lại ra quyết định không đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì xử lý trách nhiệm cũng là vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm.