Người phát triển đội tàu nước mắm
Thời thuộc Pháp ở vùng Cửa Hội không chỉ có một vài chiếc thuyền, mà có hẳn một đội thuyền hàng chục chiếc chở nước mắm và các sản phẩm hải sản của Nghệ An tung hoành khắp trong Nam ngoài Bắc. Ông chủ của “hải đội” những “con thuyền Nghệ An” đó là cụ Bát Thoàn.
Cụ Bát Thoàn tên thật là Trần Văn Thuyên, sinh năm 1874. Ông là con của cụ Bá Ơn, một nhà cự phú nức tiếng vùng Cửa Hội. Trần Văn Thuyên được cha lái cho đi theo con đường khoa cử. Ông đã hai lần ứng thí ở Trường thi hương Nghệ An. Cả hai lần đều đỗ tú tài. Có lẽ nhận thấy thời của Nho học không còn thịnh nữa, ông Thuyên không cố theo đuổi con đường cử nghiệp, mà quyết định lập thân, lập nghiệp theo một hướng khác.
Khi được chia thừa kế sớm là 1/3 gia sản của cha, ông Thuyên ra làm ăn độc lập. Ông nhận thấy vùng Cửa Hội có rất nhiều gia đình sản xuất, chế biến nước mắm và hải sản, nhưng chỉ bán quanh quẩn trong vùng, lời lãi chẳng ăn thua.
Trong lúc đó nước mắm và các sản phẩm khác của Cửa Hội và Nghệ An đã có danh tiếng, rất được ưa chuộng ở nhiều nơi. Vì vậy, một mặt vẫn lập xưởng để chế biến nước mắm, nhưng mặt khác ông quyết định thu mua nước mắm, hải sản của bà con ngư dân trong vùng, rồi mua thuyền chở đi bán khắp nơi. Khi về, ông lại mua thổ sản, hàng hóa các vùng miền khác về địa phương để bán.
Từ một vài chiếc thuyền mành lúc đầu, đội thuyền của ông đã phát triển dần lên hàng chục chiếc. Từ Cửa Hội, những “con thuyền Nghệ An” nặng mùi mắm ruốc đã đến nhiều nơi khắp trong Nam ngoài Bắc, như: Nam Định, Thanh Hóa, Huế, Đà Nẵng…
Tại Cửa Hội, ông Thuyên đã xây dựng cơ ngơi và nhà xưởng chế biến rất lớn. Ông cũng bỏ tiền, mua đá xây dựng mấy trăm mét kè dọc sông Lam để chống xói lở cho cả vùng này.
Bắt đầu là nước mắm, hải sản sau đó ông Thuyên mở rộng ra buôn bán đủ thứ, miễn là thấy mặt hàng đó có thể phục vụ nhu cầu thị trường và sinh lời. Thậm chí đội thuyền của ông mỗi khi trở về thường không đầy đủ như lúc đi. Đơn giản là thấy được giá, ông Thuyên sẵn sàng bán cả thuyền. Bằng cách đó, ông Thuyên đã sớm trở nên giàu có. Ông mua ruộng đất ở quê, đồng thời mua nhà ở Vinh. Năm 33 tuổi ông Thuyên đã có 7 gian nhà ở Vinh cho cô đầu thuê.
Công việc làm ăn đang cực kỳ thuận buồm xuôi gió, thì đột nhiên một lần sau chuyến đi Đà Nẵng dài ngày trở về, gia đình thấy ông Thuyên không về bằng đường thủy, trên thuyền của mình như mọi lần. Lần này ông về bằng đường bộ, vì đơn giản ông đã bán tất cả đội thuyền của mình. Cả nhà ai cũng lo lắng, nhưng không ai dám hỏi.
Mấy hôm sau ông mới nói sẽ lên Vinh lập nghiệp, đồng thời yêu cầu người vợ thứ tư là bà Thược đi theo mình. Tại Vinh, ông mua nhà ở số 110-112 phố Destenay (tức phố Phan Đình Phùng ngày nay), mở hiệu buôn Thành Lợi và bắt đầu mở rộng kinh doanh theo nhiều hướng khác nhau. Lúc này đường sắt từ Vinh đi Đông Hà, và sau đó là Huế đã thông, đến năm 1936 thì thông toàn tuyến Bắc Nam. Ông vẫn duy trì đội thuyền buôn bán hải sản như trước đây ở Cửa Hội, nhưng thu hẹp dần quy mô. Mặt khác, ông mở rộng mặt hàng buôn bán và vận chuyển theo đường sắt như: ngũ cốc, dầu hỏa, dầu ăn, hàng bách hóa…
Đặc biệt, nếu như năm 1906, Bạch Thái Bưởi từ Nam Định vào thầu thu thuế chợ Vinh, thì lần này, Trần Văn Thuyên lại ra chợ Rồng Nam Định thầu thu thuế ở đây. Tại Chợ Rồng, không chỉ thầu thu thuế chợ, ông còn mở một hiệu cầm đồ, về sau rất nổi tiếng, đó là hiệu Nam Hương.
Từ kinh nghiệm Chợ Rồng, những năm 1940 ông Trần Văn Thuyên cũng thầu thu thuế ở chợ Vinh, cho đến năm 1945. Ông cũng có cơ sở buôn bán ở Đà Nẵng và một vài nơi khác. Ở Vinh, từ bảy gian nhà cho cô đầu thuê, đến những năm 1940 ông đã có tất cả 36 ngôi nhà cho thuê ở Vinh. Tương tự, ở Nam Định ông cũng có ba ngôi nhà cho thuê.
Khi đã là một nhà công thương có thế lực, ông Thuyên được chọn làm Chủ tịch Hội Nông khố, thành viên Hội đồng tư vấn Trung Kỳ của Nông khố Ngân hàng (Banque du Credit), một ngân hàng giống như Ngân hàng chính sách hiện nay. Đây là một cái chức “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”. Không những không có lương bổng gì, mà ông còn phải đứng ra bảo lãnh cho nông dân vay tiền ngân hàng với lãi suất thấp.
Khi người nông dân không có khả năng trả nợ, chính ông phải trả thay. Chính vì những đóng góp này, ông được Chính phủ bảo hộ tặng Huân chương Long Bội tinh, được chính quyền Nam triều phong hàm Bát phẩm. Cái tên Bát Thoàn bắt đầu từ cái hàm Bát phẩm đó. Nhưng, có lẽ chính việc rất nhiều người nông dân đã khấm khá hơn từ đồng vốn vay ngân hàng mới là phần thưởng lớn nhất đối với ông.
Mặc dù rất giàu có, nhưng ông nổi tiếng là người tằn tiện. Ông buộc đầu bếp không được nấu cơm thừa, nếu có thức ăn thừa, ông yêu cầu cất cẩn thận để dùng cho bữa sau. Sự tằn tiện của ông khiến cho người trong nhà, kể cả cha mẹ ông cũng khá là khó chịu. Thế nhưng con người tằn tiện đó, khi cần thiết lại xuống tiền không tiếc tay. Ông không tiếc tiền chi cho con ăn học đến nơi đến chốn. Bằng cách đó cả mười mấy người con của ông sau này đều có học vấn vững chắc. Nếu đương thời ông đã lập nên một tập đoàn kinh tế, thì ngày nay con cháu chắt của ông đã tạo nên cả một tập đoàn trí thức.
Cụ khỏe mạnh, đẹp trai, nam tính, lại tài ba, giàu có nên có nhiều phụ nữ vây quanh. Sinh thời, cụ có bốn người vợ chính thức, ngoài ra còn có một số người phụ nữ khác. Lấy nhiều vợ cũng là cách cụ giải quyết yêu cầu “nhân sự cấp cao” quản lý các cơ sở kinh doanh của mình. Tất cả các bà sống với cụ và sống với nhau rất hòa thuận và trật tự.
Trong tiêu thổ kháng chiến năm 1947, toàn bộ nhà ở, cửa hiệu, 36 nhà cho thuê ở Vinh bị phá hủy, các cơ sở kinh doanh ở Nam Định, Đà Nẵng cũng ngưng trệ. Trong cải cách ruộng đất, toàn bộ ruộng đất của cụ bị tịch thu, bản thân cụ bị bắt đưa đi giam ở Anh Sơn. Sau đó, được tha về, nhưng vẫn bị giam giữ trong chiếc lều ở góc vườn. Ngày 21 tháng 10 năm Ất Mùi (1955) cụ mất trong đói khát, bệnh tật, cô đơn.
Đến sửa sai sau cải cách ruộng đất, cụ Bát Thoàn được công nhận là địa chủ kháng chiến. Hiện con cháu đã xây dựng nhà tưởng niệm cụ ở Cửa Hội.