Phong cảnh đền thờ Vua Quang Trung (núi Dũng Quyết TP. Vinh). Ảnh: Sỹ Minh
Nếu Bình Định là mảnh đất người anh hùng áo vải sinh ra và lớn lên, thì Nghệ An lại là nơi có nhiều duyên nợ nặng tình, nặng nghĩa với Quang Trung Nguyễn Huệ. Quê cha đất tổ của Ngài vốn là họ Hồ ở làng Thái Lão - Hưng Đạo - Hưng Nguyên. Từ mảnh đất này ông tổ 4 đời của Hoàng đế Quang Trung là Hồ Sỹ Anh đã vào Đằng Trong khai phá vùng Tây Sơn thượng đạo, hậu duệ của Hồ Sỹ Anh ở Bình Định là ông Hồ Phi Phúc kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất trong một gia đình khá giả, sinh ra 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Sau này Nguyễn Huệ đã ra Nghệ An tìm lại cội nguồn gia đình, nhận gia phả họ Hồ ở làng Thái Lão, huyện Hưng Nguyên làm đồng tộc, chọn Thái Lão làm tổ quán. Năm 1789, Hoàng đế Quang Trung đã truyền cho dân làng Thái Lão tu tạo lại tổ miếu để phụng thờ tổ tiên.
Với mục đích lưu giữ lại những mốc lịch sử có ý nghĩa to lớn ấy, ngày 28/4/1962, quần thể di tích danh thắng núi Dũng Quyết và Phượng Hoàng Trung Đô đã được Bộ VH &TT công nhận là Di tích danh thắng cấp quốc gia.
Nhằm tiếp tục phát huy các giá trị văn hóa lịch sử vốn có cũng như thể theo nguyện vọng của nhân dân, để tỏ lòng biết ơn vị Hoàng đế anh hùng áo vải của dân tộc, được sự đồng ý của Chính phủ, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh Nghệ An quyết định khởi công xây dựng đền thờ Hoàng đế Quang Trung vào ngày 15/8/2005. Khánh thành vào ngày 7/5/2008 nhân kỷ niệm 220 năm Phượng Hoàng Trung Đô. Xây dựng ngôi đền tại quê cha đất tổ của Hoàng đế Quang Trung và di tích Phượng Hoàng Trung Đô thuộc quần thể danh thắng cấp quốc gia Núi Dũng Quyết và Phượng Hoàng Trung Đô - Vinh là rất phù hợp với ý nghĩa tâm linh và lịch sử.
Nghi môn đền thờ Vua Quang Trung. Ảnh: Trần Hải
Men theo 1 km đường núi quanh co uốn lượn, du khách sẽ được tận hưởng không khí trong lành của thiên nhiên, đất trời. Bước lên theo 81 bậc tam cấp, kiến trúc ngôi đền hiện ra uy nghi bề thế, và cổ kính, tiêu biểu cho kiến trúc đền chùa ở Việt Nam. Bước chân vào khu vực đền là nghi môn tứ trụ, gồm 1 cổng lớn và 2 cổng nhỏ đối xứng ở hai bên; cổng lớn được bố trí 2 tầng 8 mái bằng gỗ lim kiểu chồng diêm, cả 3 cổng đều được lợp ngói mũi hài, ở cổng chính hai bên có 2 thần hộ pháp canh giữ đền. Tiếp đó là tấm bình phong tứ trụ được làm bằng đá Thanh Hóa có chạm khắc hoa văn. Sau bình phong là 2 nhà bia ngoảnh mặt vào nhau, song song với trục chính đạo, nhà bia phía bên tay trái gồm 1 trống lớn và bia khắc công trạng Hoàng đế Quang Trung ghi lại những mốc son chói lọi trong sự nghiệp vĩ đại của Hoàng đế.
Nhà bia phía bên tay phải gồm 1 chuông lớn và bia khắc bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về Hoàng đế Quang Trung với lòng tự hào dân tộc. Nối tiếp là nhà tả vu và hữu vu gồm 3 gian, 2 chái làm bằng gỗ lim. Nhà hữu vu là nhà đón tiếp đại biểu và các đoàn khách về viếng thăm. Nhà tả vu là phòng trưng bày các tư liệu hiện vật liên quan cuộc đời hoạt động của Hoàng đế Quang Trung và Triều đại Tây Sơn. Giữa hai nhà là khoảng sân rộng 1.500m2 với vườn cây đại, bồ đề và các chậu cây cảnh hòa chung vào không gian của rừng thông thơ mộng.
Nhà hạ điện, trung điện, thượng điện được xem là trung tâm của toàn bộ ngôi đền, được thiết kế theo hình chữ Tam, cao dần lên. Cả 3 nhà đều được làm bằng gỗ lim, chạm khắc họa tiết theo phong cách thời Nguyễn. Nhà hạ điện có diện tích lớn nhất 180m2 gồm 3 gian, kết cấu 2 tầng mái, giữa hai tầng có bộ chắn song con tiện để thông gió và lấy ánh sáng từ ngoài vào nhằm tăng thêm phần hoành tráng, đồ sộ, cổ kính cho toàn bộ ngôi đền. Khung thờ ở đền được bố trí theo tín ngưỡng thờ phụng truyền thống của người Việt Nam là tiền phật hậu thánh, bàn thờ Phật Thích Ca Mâu Ni được bố trí trang nghiêm ở gian giữa nhà tiền đường, là nơi để các phật tử tỏ lòng thành kính với đức Phật. Phía bên tả là bàn thờ Tứ phủ công đồng và Tam tòa thánh mẫu. Phía bên hữu là gian thờ Trấn thủ Nghệ An thời Tây Sơn Nguyễn Thận.
Đáng chú ý ở nhà hạ điện là bức đại tự bằng chữ Hán, phiên âm “Nghệ dục Bình sinh” dịch nghĩa: Nghệ An là quê cha đất tổ, còn Bình Định là nơi người anh hùng áo vải sinh ra và lớn lên. Nhà Trung điện có diện tích nhỏ hơn, 160m2 với 3 gian thờ, gian giữa thờ các quan lại tướng sỹ thời Tây Sơn nói chung, hai bên tả hữu thờ các văn thần và võ tướng tiêu biểu của Triều Tây Sơn. Bàn thờ quan văn gồm bài vị của 3 vị: Binh bộ thượng thư Ngô Thì Nhậm, Viện trưởng Sùng chính viện La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp và Bắc hành sứ bộ Phạm Công Trị. Bàn thờ tướng võ gồm bài vị của 3 vị: Thủy sư đô đốc Ngô Văn Sở, Thống suất Đại nguyên soái Trần Quang Diệu và Đô đốc trung liệt nữ Bùi Thị Xuân. Nhà Trung điện cũng treo 3 bức đại tự lớn bằng chữ Hán, bức ở giữa “Vạn cổ anh phong” nghĩa là: “Sự nghiệp anh hùng lưu danh muôn thủa”, bức bên trái “Địa linh nhân kiệt” Nghĩa là: “Đất linh thiêng sinh ra anh hùng hào kiệt”, bức bên phải “Nhất nhung đại định” Nghĩa là: “Đánh một trận lớn mà bình định được cả thiên hạ”. Thượng điện là nơi đặt bàn thờ của Hoàng đế Quang Trung cùng vương phụ Hồ Phi Phúc và Vương mẫu Nguyễn Thị Đồng. Tượng Hoàng đế Quang Trung dáng ngồi, đúc bằng đồng cao 1,5m được đặt uy nghi chính giữa hậu cung.
Hàng năm đền thờ Hoàng đế Quang Trung có 2 ngày lễ lớn đó là: Ngày 29 tháng 7 âm lịch – ngày giỗ của Hoàng đế Quang Trung, và ngày mùng 5 tháng Giêng âm lịch - ngày Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa. Đặc biệt vào dịp kỷ niệm Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa đền thờ Hoàng đế Quang Trung tổ chức lễ phát hành thẻ ấn để phù hộ cầu mong cho mọi người, mọi nhà được bình an may mắn trong năm mới.
Ngoài việc hưởng thụ những giá trị văn hóa tâm linh, chiêm ngưỡng khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, không khí tĩnh mịch linh thiêng của đền thờ Hoàng đế Quang Trung, du khách còn có dịp thưởng thức hương vị đặc biệt “đặc sản chè vằng” được Ban Quản lý thu hái từ cây chè vằng tự nhiên trên núi Dũng Quyết nơi đền thờ tọa lạc.
Kể từ ngày khánh thành Ban Quản lý đền thờ Hoàng đế Quang Trung đã vinh dự được đón tiếp các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương, cùng hàng vạn lượt du khách từ khắp mọi miền Tổ quốc, các đoàn khách quốc tế đến thắp hương tưởng niệm và thể hiện tấm lòng ngưỡng mộ tri ân đối với một trong những vị anh hùng kiệt xuất của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XVIII.
Vũ Hồng Đức