(Baonghean) - Con đường về quê là con đường đẹp nhất trong mọi con đường. Nếu bạn cũng có những năm lính chiến trường bom đạn như tôi thì bạn mới thấu hiểu được khúc đường từ tỉnh về huyện, từ huyện về xã nó diệu vợi, man mác biết chừng nào. Ngày xưa, con đường không được như bây giờ. Nó ổ voi, ổ trâu gồ ghề, lởm chởm lắm. Xếp hàng mua được vé tàu, vé xe về quê là cả một vấn đề nan giải. Vậy mà náo nức, hồi hộp và hân hoan biết chừng nào khi nhìn thấy cảnh làng quê thân thuộc của mình. Bây giờ thật sướng. Đường qua quê Bác, đường sang quê chú đều thênh thang phẳng lỳ như nhau...
Còn nhớ, trước ngày xa quê, ngày 19/3/1965, Mỹ ném bom ở Đồi Si và một số địa điểm khác của huyện Đô Lương và huyện Thanh Chương. Hình như cũng hôm đó, bom ném trúng kho lương thực tại Dùng. Bấy giờ, huyện huy động thanh niên cả huyện sơ tán kho thóc vừa bị bom Mỹ ném trúng. Đồi Si tuy thuộc huyện Đô Lương nhưng lại cách nhà tôi chừng hơn cây số đường chim bay. Hôm ấy, chúng tôi đang bẻ ngô ngoài bãi, không có hầm hố gì, mọi người nằm bẹp dí quanh đống cây ngô. Trâu bò chạy thục mạng. Tiếng gầm rú của máy bay phản lực nghe xé tai. Cũng bắt đầu từ hôm đó cuộc sống yên bình của một vùng quê trung du hẻo lánh thay đổi hẳn. Dân xã thì đào hào giao thông. Gia đình thì đào hầm trú ẩn. Xóm nào cũng treo kẻng báo động máy bay. Dân quân tổ chức trực phòng không 24/24h. Học sinh đội mũ rơm đi học. Thanh niên nhuộm áo phin trắng bằng phẩm xanh hết lượt…
Ngỡ như mới ngày nào đó, mà đã 50 năm trôi qua. 50 năm phiêu dạt giang hồ tứ chiếng. Giờ về tóc bạc trắng, trở lại bến đò xưa, không còn một chút dấu tích nào nữa, chỉ còn có trong lòng mình dòng sông, bến đò, bờ bãi xưa tồn tại trong tâm trí mình từ năm mươi năm trước vẫn vẹn nguyên đến từng chi tiết.
Tôi là nhà thơ thuộc hàng út ít của đất mẹ Thanh Chương. Sau những nhà văn tên tuổi của Thanh Chương như: Giáo sư, nhà văn Đặng Thai Mai, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, nhà văn Đặng Văn Ký, nhà thơ Võ Thanh An,… Lúc sinh thời, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi quê Thanh Cát, Thanh Chương vẫn nhắc tôi cố gắng viết cái gì đó về quê hương của mình. Anh Vợi xa quê đã lâu, lại lấy vợ người Hà Nội. Anh thành danh từ Phú Thọ, nhưng cho đến tận cuối đời, anh vẫn đau đáu một niềm quê. Tráng khúc về Thanh Chương của anh chỉ hoàn thành trước lúc mất có một, hai năm gì đó. Tấm lòng anh Vợi với quê hương Thanh Chương thật đáng học hỏi. Anh Nguyễn Bùi Vợi và anh Võ Thanh An là những người anh để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp cho tôi với tình đất, tình người Thanh Chương. Các anh luôn quan tâm theo dõi động viên những người viết của quê mình. Trong đời sống thường ngày, các anh mang cốt cách của người Thanh Chương, của người Nghệ rất rõ nét. Dù sống ở thủ đô, nhưng suốt đời mình các anh vẫn không quên mảnh đất nơi mình sinh ra và lớn lên. Bây giờ người Thanh Chương có mặt khắp năm châu. Tôi từng gặp người Thanh Chương ở nhiều nước trên thế giới. Ở đâu họ cũng tự hào mình là người “quê nhút” Thanh Chương. Tôi đã thật sự xúc động được Giáo sư, Tiến sỹ, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học - Xã hội Việt Nam Nguyễn Xuân Thắng nhận đồng hương quê Thanh Chương với anh trong dịp tình cờ hội ngộ với nhau tại Đại sứ quán Việt Nam ở Hoa Kỳ. Đồng hương - hiểu theo nghĩa là những người có cùng chung một vùng quê, một tập quán sinh hoạt, một vùng văn hóa bản địa giống nhau. Với những người xa quê, đồng hương là một phần của ký ức, của kỷ niệm tuổi thơ. Họ gắn bó, thương yêu nhau như những người anh em họ hàng thân thuộc. Tôi và nhiều người khác, sớm xa nhà, tha hương, nay trở lại quê nhà như tìm về nguồn cội của mình. Những năm đất nước bước vào công cuộc đổi mới, đời sống đã khấm khá dần lên. Đường sá đi lại đã thuận lợi hơn rất nhiều. Những chuyến về quê của chúng tôi đã dày lên. Tôi thật sự vui mừng trước sự đổi thay nhiều mặt của quê hương mình. Quê hương là nơi cất giấu kỷ niệm tuổi thơ của cuộc đời tôi. Là mảnh đất nhen nhóm và nuôi dưỡng sáng tác của tôi. Với tôi, hình ảnh dòng sông Lam với nhiều ký ức tuổi thơ đã giúp tôi có được một bài thơ tâm huyết, để rồi từ chất liệu của bài thơ này, nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo đã viết nên ca khúc “Khúc hát sông quê” thật sâu lắng, được những người con quê hương Thanh Chương, người xứ Nghệ và nhiều người Việt Nam tha hương khác yêu mến. Tôi thật sự biết ơn mảnh đất đã sinh ra và nuôi dưỡng mình khôn lớn - Mảnh đất Thanh Chương yêu quý của tôi!
Những người con xa quê của đất Thanh Chương đã có nhiều sự đóng góp, bằng cách này hay cách khác cho quê hương, nhưng, còn đó những đề tài, những câu hỏi, những sáng kiến mà quê hương Thanh Chương đang chờ đợi và ngóng trông. Trong những lần về quê, bên chén rượu đậm đà nghĩa tình quê hương với những anh em hiện đang là những cán bộ của huyện nhà, tôi đã chia sẻ những trăn trở suy nghĩ của mình về quê hương. Truyền thống yêu nước và cách mạng, truyền thống hiếu học và cần cù lao động của người Thanh Chương đã được biết đến từ lâu, rằng: - "Thanh Chương phong tục địa phương khoáng đạt, cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp; kẻ sĩ chăm chỉ đèn sách, trau dồi lễ nghĩa; dân làm nghề nông thì đàn ông chăm lo mùa vụ, đàn bà thì giữ gìn chính chuyên, hiền thục. Mọi người đều rất coi trọng lễ làng, phép nước, chuộng sự cần kiệm và đều coi trọng việc báo đáp công ơn đối với nhà vua cũng như cha mẹ…". Truyền thống là thế, nhưng bước vào công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì người Thanh Chương mình tỏ ra lúng túng hẳn. Bạn tôi, một cán bộ Tuyên giáo Huyện ủy, cho rằng: Tập quán canh tác sản xuất nhỏ, manh mún là trở ngại chính cho nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Nhiều chủ trương gợi mở một hướng sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp của huyện đã không vào được với người nông dân. Từ thực tế những người thân trong gia đình mình, tôi cũng nghĩ thế. Nhiều gia đình nông dân ở quê tôi vẫn bình chân như vại. Vẫn là dậy sớm thức khuya như xưa, nhưng như vậy là chưa đủ để thành khá giả, giàu có. Tiềm năng lao động cộng với đặc điểm thổ nhưỡng có thể lắm chứ để trở thành những vùng sản phẩm nông nghiệp có giá trị hàng hóa trong cả nước lắm chứ. Tôi đã thấy ở Vinh thấp thoáng những quán ăn “Gà Thanh Chương”. Tôi đã thấy dọc con đường phố huyện đã bày bán những hũ “Nhút Thanh Chương”. Và tôi mơ ước những sản phẩm hàng hóa khác trên thị trường cả nước như: Trám Cát Văn, rượu sông Giăng, măng Thanh Đức… Có thể lắm chứ, những ngành nghề thủ công tận dụng lao động nhàn rỗi và nguyên liệu sẵn có của Thanh Chương như: Tăm cật giang, đũa tre, đũa cau mà tôi thấy nhiều nơi họ đã làm và rất có thị trường tiêu thụ. Cùng với nhiều hướng đi phát triển kinh tế mà huyện nhà đang triển khai, tôi vẫn ước mơ một sự năng động ngay trong mỗi gia đình, ngay trong những thanh niên đang lập nghiệp ở quê nhà. Tôi đã có dịp họp mặt với các nhà doanh nghiệp trẻ quê Thanh Chương ở Hà Nội, tôi rất mong ngay trên đất Thanh Chương cũng có Hội các nhà doanh nghiệp trẻ, Hội những người sản xuất giỏi của Thanh Chương. Mong lắm thay!
Nhạc sỹ Phan Thanh Chương có gửi tôi bài viết về nhút, tôi thấy anh có vẻ đề cao nhút. Bây giờ, có thể là thế, có thể người ta đã cách điệu món nhút truyền thống đi rồi, nhưng khởi nguyên của nhút là khá đơn giản. Thành phần của nhút gồm chủ yếu là xơ mít, hoa chuối và muối hạt. Nhiều vùng không có xơ mít, hoa chuối người ta làm nhút bằng ngọn đậu. Trong nhút có cả cà pháo. Nhút là một thứ dưa, nó là một thứ “kim chi” của vùng Thanh Chương và nhiều vùng khác của Nghệ An. Không nhớ rõ lắm, nhưng nhút dễ làm, không cầu kỳ công thức như trong bài viết của Phan Thanh Chương. Tuy nhút có thể có người làm ngon, có người làm không ngon, nhưng nói chung, công thức chế biến thì hết sức đơn giản, ai cũng làm được.
Bây giờ nhút Thanh Chương đã thành một thương hiệu nổi tiếng. Nhút trở thành một địa chỉ văn hóa. Cùng với Nhút là những tên làng, tên quê, tên những địa danh xưa gắn bó với bao đời lam lũ của người dân Thanh Chương. Tất cả như đang cần được lên tiếng, được nhắc tới trong những sáng tác, trong những thương hiệu sản phẩm, trong những đặc sản riêng có của vùng đất này.
Nhà thơ Hoàng Trần Cương có câu thơ được nhiều người nhớ: Chiếc nón cời mẹ đội suốt mùa mưa/ Khi thủng chóp mẹ đội lên vại nhút. Vại nhút nhà nào cũng có. Nó là thứ thức ăn dự trữ. Khi nông vụ bận rộn gấp gáp, khi lũ lụt đóng trước đóng sau thì nhút là thức ăn chủ yếu. Nhút có thể đem ra ăn xổi như một thứ dưa. Cũng có thể xào, hoặc nấu canh, làm nộm đều được. Nói chung, nhút là món ăn kham khổ, ít chất dinh dưỡng. Nói ăn cơm với nhút là để chỉ sự nghèo khó, không có tiền để mua thịt cá. Còn câu thành ngữ “nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn” không rõ xuất xứ thế nào, nhưng thiết nghĩ, chưa hẳn thành ngữ trên là để chỉ món đặc sản đã thành thương hiệu của hai vùng đất này, mà có lẽ, ở đấy, do nhút và tương phổ biến quá, nó gần như là thức mặn chủ yếu, nhiều đời của những người dân quê nơi đó.
Bây giờ, ít gia đình còn làm nhút nữa, nhưng ra quán đặc sản, hay dự các buổi chiêu đãi, tiệc tùng của huyện, bao giờ mình cũng thấy có món nhút. Đương nhiên là nhút đã được cách điệu lên nhiều rồi, nó không còn có mùi thum thủm và mặn chát như xưa nữa. Trong thời buổi ăn kiêng thịt cá này, nhút là món hết sức thời thượng. Nó vừa ngon miệng, vừa là thứ ẩm thực thích hợp cho những người cần tránh dư thừa đường, đạm.
Trong một lần về quê, nhân có hội nghị gì đó của huyện, tôi được mời ở lại dự bữa cơm thân mật với các ban, ngành trong huyện. Còn nhớ, nhà ăn Huyện ủy hôm đó có món nộm nhút rất ngon, uống rượu quê với nộm nhút xơ mít xanh nó bắt lắm, khoái khẩu lắm! Như không phải đang ăn, mà như mình đang nhấm nháp món quá khứ của mình trong vị nhút quê hương!
“Ngái ngôi chi mà anh nỏ về/ Hay là anh chê quê em nghèo đói”… Tôi không phải là nhân vật anh trong bài hát của Phan Thanh Chương, tôi là người Thanh Chương xa xứ, nên, ngái ngôi chi thì tôi cũng về…
Thanh Chương 6-9/7, Vũng Tàu 27/7/2015
Lê Huy Mậu