Việt Nam và Nhật Bản cùng nằm ở châu Á-Thái Bình Dương. Sự tin cậy về chính trị, sự tương đồng về văn hóa giữa hai dân tộc cũng như những thành quả đầy ấn tượng của hợp tác trong suốt hơn 40 năm qua là nền tảng vững chắc và động lực mạnh mẽ để đưa quan hệ Việt Nam-Nhật Bản tiếp tục phát triển lên một tầm cao mới, hướng tới tương lai của mối quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng.

resize_images1800959_1.jpgThủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đón Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trong chuyến thăm Nhật Bản, tháng 5/2016. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 21/9/1973, quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản không ngừng được củng cố và phát triển với nội dung hợp tác ngày càng sâu rộng. Hai nước đã thiết lập khuôn khổ quan hệ Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Junichiro Koizumi tháng 4/2002.

Nhật Bản là nước đầu tiên trong các nước G7 thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với Việt Nam. Trong chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh hồi tháng 4/2009, hai nước nhất trí nâng cấp quan hệ lên thành Đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á. 

Tháng 10/2010, hai nước ra Tuyên bố chung Việt Nam-Nhật Bản về Phát triển toàn diện quan hệ Đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á, nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan. 

Đặc biệt, trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Nhật Bản của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tháng 3/2014, hai nước đã nâng cấp quan hệ lên thành Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á.

Trong chuyến thăm chính thức Nhật Bản tháng 9/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã ra Tuyên bố về tầm nhìn chung quan hệ Việt Nam-Nhật Bản.

Tăng cường quan hệ chính trị-ngoại giao 

Trong những năm qua, quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Nhật Bản được củng cố và tăng cường, ngày càng đi vào thực chất, trên cơ sở lợi ích chiến lược tương đồng. Quan hệ hai nước đang ở giai đoạn tốt nhất trong lịch sử kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao và có sự tin cậy cao. Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc tại các diễn đàn quốc tế và khu vực. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã chọn Việt Nam là nước đầu tiên đến thăm sau khi nhậm chức nhiệm kỳ 2 vào tháng 1/2013 và là lãnh đạo đầu tiên trong các nước G7 mời Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng.

Hợp tác giữa hai Quốc hội được tăng cường thông qua trao đổi đoàn cấp cao và giữa các Ủy ban chuyên môn. Nhóm Nghị sĩ Hữu nghị Việt-Nhật và Liên minh Nghị sĩ Hữu nghị Nhật-Việt duy trì thường xuyên tiếp xúc và hợp tác tích cực, hiệu quả.

Hai bên cũng duy trì hiệu quả các cơ chế đối thoại như Ủy ban Hợp tác Việt-Nhật do hai Bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch từ năm 2007; Đối thoại Đối tác chiến lược Việt-Nhật về ngoại giao-an ninh-quốc phòng cấp Thứ trưởng Ngoại giao từ năm 2010; Đối thoại chính sách quốc phòng Việt-Nhật cấp Thứ trưởng từ năm 2012; Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng từ năm 2013.

Việt Nam và Nhật Bản ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc... Việt Nam ủng hộ Nhật Bản vào Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2016-2017.

Đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam

Nhật Bản hiện là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (tháng 10/2011). Nhật Bản xác định quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam là trọng tâm trong việc thúc đẩy quan hệ hai nước. 

Trong hợp tác thương mại, Việt Nam và Nhật Bản đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ năm 1999 và ký hiệp định Đối tác kinh tế vào tháng 10/2009, tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho tăng cường quan hệ thương mại giữa hai nước. Năm 2015, Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam với kim ngạch thương mại song phương đạt 28,526 tỷ USD. Tính đến tháng 11/2016, kim ngạch thương mại hai nước đạt 26,8 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 13,21 tỷ USD (tăng 2,7% so với cùng kỳ 2015), nhập khẩu đạt 13,6 tỷ USD (tăng 3,3%). 

Về đầu tư, hai bên đã ký Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư vào tháng 12/2004. Tính đến tháng 11-2016, Nhật Bản có 3.242 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 42,016 tỷ USD và 296 dự án cấp mới, 195 dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,95 tỷ USD, đứng 2 trong tổng số 112 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam (sau Hàn Quốc). 

Về viện trợ phát triển chính thức (ODA), Nhật Bản là nước viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng cam kết ODA của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Từ năm 1992 đến hết tài khóa 2015, Nhật Bản đã viện trợ khoảng 29,5 tỷ USD cho Việt Nam. Riêng trong năm tài khóa 2015, Nhật Bản cam kết vốn vay ODA cho Việt Nam hơn 310,08 tỷ Yen (khoảng 2,5 tỷ USD), mức cao nhất từ trước đến nay. Giải ngân ODA của Việt Nam (không kể các khoản vay chương trình hỗ trợ ngân sách) đạt 22%, tương đương 147 tỷ Yen, đứng thứ 2 (sau Ấn Độ) trong số các nước sử dụng ODA vốn vay Nhật Bản.

Nhiều dự án của Nhật Bản đã hoàn thành và đưa vào khai thác rất hiệu quả, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Điển hình gần đây có ba dự án hạ tầng lớn ở Thủ đô Hà Nội gồm cầu Nhật Tân, đường nối cầu Nhật Tân với Sân bay Quốc tế Nội Bài, Nhà ga T2 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, đều được đầu tư bằng nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản và vốn đối ứng trong nước. Ba công trình này được khánh thành và đưa vào sử dụng đầu năm 2015, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, văn hóa, du lịch của Thủ đô và cả nước.

Ngoài ra, Nhật Bản đang tích cực hỗ trợ Việt Nam phát triển công nghiệp trong khuôn khổ Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam-Nhật Bản đến năm 2020, tầm nhìn 2030. 

Hợp tác nông nghiệp có bước đột phá từ năm 2014. Hai bên đã ký kết Tầm nhìn trung và dài hạn trong hợp tác nông nghiệp Việt Nam-Nhật Bản nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tháng 9/2015.

Trong lĩnh vực du lịch, năm 2016, lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam đạt 740.592 lượt, tăng 10,3% so với năm 2014, đứng thứ 3 (sau Trung Quốc và Hàn Quốc). Số khách du lịch Việt Nam đến Nhật Bản năm 2015 là 185.400 lượt; 11 tháng năm 2016 đạt 220.700 lượt, tăng 26,1%. 

Hợp tác tốt trong các lĩnh vực khác

Tình hữu nghị đã khơi nguồn cho các hoạt động tương trợ, giúp đỡ giữa Việt Nam và Nhật Bản trong nhiều lĩnh vực trong đó có hợp tác lãnh sự, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, lao động, ứng phó với biến đổi khí hậu, giao lưu địa phương.

Về hợp tác lãnh sự, theo thống kê của Bộ tư pháp Nhật Bản, đến tháng 12/2016, tại Nhật Bản có 124.820 người Việt Nam và tại Việt Nam có khoảng 13.500 người Nhật Bản. Nhật Bản đã mở Tổng lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh (tháng 3/1997) và Việt Nam mở Tổng Lãnh sự quán tại thành phố Osaka (tháng 3/1997) và thành phố Fukuoka (4/2009). Tháng 6/2010, Việt Nam bổ nhiệm hai Tổng Lãnh sự danh dự tại thành phố Nagoya và thành phố Kushiro.

Từ ngày 1/1/2004, Việt Nam miễn thị thực cho công dân Nhật Bản du lịch và kinh doanh tại Việt Nam trong vòng 15 ngày và từ ngày 1/7/2004, quyết định miễn thị thực nhập cảnh ngắn hạn cho mọi công dân mang hộ chiếu Nhật Bản. Ngày 8/3/2005, Việt Nam và Nhật Bản đã trao đổi Công hàm miễn thị thực nhập cảnh cho công dân hai nước mang Hộ chiếu ngoại giao và công vụ trong thời hạn lưu trú không quá 90 ngày bắt đầu thực hiện từ 1/5/2005.

Nhật Bản bắt đầu thực hiện việc nới lỏng quy chế cấp thị thực nhiều lần từ ngày 30/9/2014 và nới lỏng hơn từ ngày 15/2/2016 và thị thực một lần từ ngày 20/11/2014 cho công dân Việt Nam.

Hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa hai nước đã phát triển dưới nhiều hình thức. Nhật Bản là một trong những nước viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho ngành giáo dục đào tạo của Việt Nam. Hai bên đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác trong lĩnh vực hợp tác giáo dục. Số lưu học sinh Việt Nam tại Nhật Bản hiện nay là 38.882 người.

Nhật Bản đang hợp tác để nâng cấp 4 trường đại học của Việt Nam đạt đại học chất lượng cao (Đại học Cần Thơ, Đại học Đà Nẵng, Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học Nông nghiệp Hà Nội); đang hợp tác xây dựng Trường Đại học Việt-Nhật nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ, quản lý và dịch vụ; hỗ trợ Việt Nam dạy tiếng Nhật tại một số trường phổ thông cơ sở tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

Về hợp tác lao động, từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã cử nhiều tu nghiệp sinh sang Nhật Bản. Hiện có khoảng hơn 45.000 lao động, thực tập sinh Việt Nam tại Nhật Bản trong các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Hai bên đã ký Bản ghi nhớ về việc Nhật Bản tiếp nhận điều dưỡng viên, hộ lý của Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định đối tác kinh tế song phương EPA tháng 10/2011, đợt đầu tiên gồm 138 y tá và điều dưỡng viên, đợt hai gồm 137 người đã sang Nhật Bản.

Hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu phát triển mạnh mẽ, thực chất với việc Nhật Bản liên tục cung cấp ODA những năm gần đây cho các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam. Trong chuyến thăm Nhật Bản và tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vào tháng 5-2016, Thủ tướng Abe đã công bố hỗ trợ khẩn cấp không hoàn lại 2,5 triệu USD để ứng phó với tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn và cho biết Nhật Bản sẽ nghiên cứu hỗ trợ Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu trong trung và dài hạn. Bên cạnh đó, trước thực trạng môi trường ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng, Nhật Bản cũng đã triển khai hỗ trợ Việt Nam cải thiện môi trường đô thị một cách có hệ thống.

Hợp tác địa phương giữa Việt Nam và Nhật Bản cũng được thúc đẩy mạnh mẽ, nhiều địa phương của hai nước đã ký văn bản hợp tác như Thành phố Hồ Chí Minh-Osaka (năm 2007), Đà Nẵng-Sakai (năm 2009), Hà Nội-Fukuoka, Đà Nẵng-Yokohama, Thành phố Hồ Chí Minh-Yokohama, Đồng Nai-Hyogo, Bà Rịa-Vũng Tàu - Kawasaki (năm 2013), Phú Thọ-Nara, Huế-Kyoto (năm 2014), Hưng Yên-Kanagawa, Hải Phòng-Niigata và Nam Định-Miyazaki (năm 2015).

Những thành công mà Việt Nam và Nhật Bản đã đạt được là những mốc quan trọng góp phần củng cố và phát triển toàn diện quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng, đáp ứng mong muốn và lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình, hợp tác và phát triển của khu vực châu Á-Thái Bình Dương./.

Theo Vietnamplus

TIN LIÊN QUAN