(Baonghean) - Theo chị N.T. H trình bày: Trước khi chị kết hôn với anh B, bố mẹ anh B đã tặng cho anh B một ngôi nhà 2 tầng tại thành phố X. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chị đã xây thêm một tầng nữa và tu sửa lại ngôi nhà. Do bất đồng quan điểm và phát sinh nhiều mâu thuẫn nên vợ chồng chị quyết định ly hôn. Anh B cho rằng, ngôi nhà này thuộc sở hữu riêng của anh vì anh B chưa nhập vào tài sản chung của gia đình. Do đó, anh B yêu cầu chị H phải ra khỏi nhà, không được nhận bất cứ quyền lợi gì từ ngôi nhà đó. Hiện nay cuộc sống của chị H đang rất khó khăn, không có chỗ để ở.
Hỏi: Theo quy định của pháp luật thì chị có được nhận phần giá trị tài sản nào từ ngôi nhà mà anh chị đã chung sống hay không?
Trả lời: Ngày 1/1/2015 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực. Điều 43, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về tài sản riêng của vợ chồng như sau:
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các Điều 38, 39 và 40 của luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại Khoản 1, Điều 33 và Khoản 1, Điều 40 của luật này”.
Theo quy định này, trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng cũng có quyền có tài sản riêng. Trước khi kết hôn, bố mẹ anh B đã tặng cho anh B một ngôi nhà 2 tầng, anh B chưa nhập tài sản này vào tài sản chung của gia đình. Do đó, ngôi nhà là tài sản riêng của anh B.
Tuy nhiên, việc anh B đuổi chị ra khỏi nhà trong khi chị đang gặp khó khăn và không cho chị hưởng bất cứ quyền lợi gì từ ngôi nhà này là sai.
Theo quy định tại Điều 63, luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì:
“Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.
Mặt khác, Điều 30, Nghị định số 70-2001/NĐ - CP cũng quy định về việc giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn đối với nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên như sau:
“1. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng đã đưa vào sử dụng chung, thì khi ly hôn, nhà ở đó vẫn thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Bên vợ hoặc chồng sở hữu nhà có nghĩa vụ hỗ trợ cho bên kia tìm chỗ ở mới, nếu bên kia có khó khăn và không thể tự tìm được chỗ ở mới. Bên chưa có chỗ ở được lưu cư trong thời hạn 6 tháng để tìm chỗ ở khác.
2. Trong trường hợp nhà ở đó đã được xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa, cải tạo, thì chủ sở hữu nhà phải thanh toán cho bên kia phần giá trị nhà đã xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa, cải tạo mà bên đó được hưởng vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn”.
Như vậy, theo các quy định trên thì ngôi nhà này vẫn thuộc quyền sở hữu của anh B nhưng đã được năng cấp và sửa chữa sau khi kết hôn. Vì vậy, anh B phải thanh toán cho chị H một nửa phần giá trị nhà đã xây dựng mới, nâng cấp và sửa chữa, cải tạo. Đồng thời, khi chị H đang gặp khó khăn thì anh B phải có nghĩa vụ hỗ trợ chị H tìm chỗ ở mới. Trong thời gian chị H chưa tìm được nhà, chị H có quyền được lưu cư trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt.
Văn phòng luật sư Trọng Hải & Cộng sự