(Baonghean) -Anh là một chiến sỹ ngã xuống trong thời bình. Hơn 3 tháng trôi qua, kể từ ngày đứa con trai hy sinh trong lúc dập lửa cháy rừng, người mẹ ấy vẫn chưa nguôi nỗi đau đớn, bàng hoàng. Bà ngồi thẫn thờ nhìn ra cửa, mong có một phép màu nào đấy, để đứa con khoác ba lô, đội mũ gắn ngôi sao, quệt mồ hôi nở nụ cười chào mẹ, trước khi vào nhà…
Chúng tôi về thăm quê nhà của Liệt sỹ - Trung tá Nguyễn Tuấn Ngãi, ở xóm 6, xã Văn Thành (Yên Thành). Làng quê bình yên, con đường đi giữa cánh đồng lúa dẫn về ngôi nhà nhỏ đơn sơ nằm lọt giữa vườn cây xanh mát. Bố mẹ của anh Ngãi đón chúng tôi bằng sự hồn hậu chất phác của người dân quê. Trên gương mặt già nua, dù cố gắng mỉm cười vẫn không giấu được nỗi đau kìm nén, đôi lúc vỡ ra thành nước mắt nghẹn ngào. Ở đó, chúng tôi im lặng ngồi nghe câu chuyện của người mẹ, người cha về người con trai hiền lành, ít nói lại là một chiến sĩ kiên cường, sẵn sàng cống hiến cuộc đời mình cho đất nước.
Nguyễn Tuấn Ngãi là con thứ 3 trong gia đình có 6 anh chị em. Bà Phan Thị Hoa (68 tuổi) nhớ lại ngày mình sinh con - một ngày mùa đông năm 1972. Lúc đó bà vẫn đang chuẩn bị quang gánh ra đồng đi cấy. Cuộc sống lúc bấy giờ còn nghèo đói, vất vả. Đứa con sinh ra yếu ớt, ốm đau liên miên: “Càng nghĩ càng thương con, lúc nhỏ hắn 2 lần suýt chết lả. Một lần lúc tuổi rưỡi, nhà nỏ còn hột gạo mô, đi làm về thấy người ta nói con mình lả đi, không khóc nổi, tui chạy vội sang mấy nhà trong xóm, vay được nắm gạo về nhai sống rồi trún cho con. Còn lần nữa, là khi nó đang học lớp 3, đi học về đói quá, chóng mặt lao từ bờ mương xuống ruộng. Trong mấy đứa con, hấn là đứa yếu nhất”, vừa kể lại bà vừa khóc.
Ông Nguyễn Tuấn Đức với di ảnh của con trai Nguyễn Tuấn Ngãi.
Ảnh: Xuân Hoàng
Nhưng dù nghèo đói, đứa con ấy vẫn lớn lên, hiền lành như cục đất, chăm chỉ, không ngại việc gì. Thời điểm ấy, bà làm phó chủ nhiệm HTX, rồi sau đó đi học làm cô giáo làng. Chồng bà, ông Nguyễn Tuấn Đức (SN 1948) bộ đội phục viên trở về làm bí thư Đảng ủy xã Văn Thành, rồi được bầu làm đại biểu HĐND tỉnh mấy khóa liền. Ông bà sống liêm khiết, ngay thẳng. Bà còn nói với ông: “Người ta cho chi cũng đừng có lấy ông ạ, cả làng cả nước đang nghèo”. Có lẽ, được sinh ra và giáo dục trong một gia đình như thế, Ngãi đã sớm biết thương những người dân quê lam lũ, và sống tình cảm, nhiệt tình giúp đỡ người khác. Lớn lên một chút, Ngãi xin cha cho học thợ theo nghề mộc. Khéo tay, anh đóng được cả bàn, ghế, tủ, rồi còn học đóng cả rui, cột, mè để dựng nhà.
Năm 1991, Nguyễn Tuấn Ngãi học xong cấp 3 thì có giấy gọi đi nghĩa vụ quân sự. Nhớ lại lời kể của cha về những năm tháng 1968 – 1972 chiến đấu trong mặt trận Bình – Trị - Thiên, chàng thanh niên trẻ không thi đại học nữa, mà vào bộ đội. Bà Hoa nghe nói, thì thương con. Bà tất tả ra đồng gặt ít lúa. Trong nhà bà lúc ấy hết gạo, chỉ còn ít mì hột, bo bo… Bà gặt về, cho con có bữa cơm không độn để con lên đường!
Ngãi đi được 4 tháng thì được về nhà trong dịp đơn vị phân công xuống chợ Si (Diễn Châu) mua đồ về sửa lán cho doanh trại bộ đội. Anh mang về cho mẹ 5 cân gạo. Trời dạo ấy mưa lụt, bữa cơm ngày con trở về, thấy được vẻ chững chạc, rắn rỏi của con, bố mẹ thấy ấm lòng, ấm dạ. Con mình rồi cũng đã lớn khôn thật rồi. Anh thông báo với bố mẹ, mình được đơn vị cử đi học sĩ quan ở Nam Đàn. Học giỏi, huấn luyện tốt, Ngãi được cử đi học lớp cảm tình Đảng, và 6 tháng sau được nghỉ phép về nhà cùng cấp trên điều tra lý lịch kết nạp đảng viên mới. Anh hỏi cha về nguyện vọng sau khi ra trường nên đi đâu. Ông Đức nói với con: “Cha cũng là bộ đội. Mà bộ đội, thì ở đâu Tổ quốc cần thì đến. Con cứ nói với tổ chức, tổ chức điều đi mô, con đi đó, đừng ngại chi cả!”.
Thế là sau đó, Nguyễn Tuấn Ngãi theo sự phân công của tổ chức vào Thừa Thiên Huế. Tại đây anh xung phong đến huyện Nam Đông, ngày đó mới được chia tách ra từ huyện Phú Lộc, vùng rừng núi hoang sơ. Anh lại tình nguyện đi vào vùng sâu, vùng xa nhất, nơi sinh sống của các đồng bào dân tộc thiểu số, đang rất cần sự giúp đỡ của bộ đội ở các xã Thượng Long, Thượng Quảng, Thượng Lộ…
Chỉ một năm sau khi rời ghế nhà trường, từ cậu học trò thư sinh, Ngãi đã trở thành chiến sĩ phục vụ ở vùng cao. Lên đây, nhớ lại ngày nhỏ cha kể chuyện ở Quỳ Hợp, người ta làm nhà sàn, bộ đội xin vào ở bên dưới, mục đích là để cho dân đuổi gia súc ra lấy chỗ cho bộ đội ở, từ đó mà dạy cho đồng bào nếp sống vệ sinh sạch sẽ. Vậy là anh học theo bố, dạy cho dân cách làm chuồng riêng, đưa gia súc ra bên ngoài. Những ngày còn bé theo mẹ ra đồng cấy hái, làm cỏ, chăm lúa, nay lại áp dụng bày kiến thức nông nghiệp trồng lúa nước cho bà con dân bản. Giúp đỡ dân cả những việc đóng cái bàn học, ghế ngồi, cánh cửa…
Sự giúp đỡ nhiệt tình, vô tư của anh, khiến bà con dân bản ai cũng yêu quý, coi như con cái. Ông Đức kể: “Có lần, hai vợ chồng tui vô thăm con trong đó, thấy năm mô con cũng được giấy khen. Ra đường, gặp dân bản họ cứ vỗ vai nói: “Ông mệ có người con đúng là lính Cụ Hồ, giúp dân chúng tôi nhiều lắm. Cứ có gió bão là anh đi khắp trong làng, chỗ mô hư hỏng tốc mái là anh sửa hết. Không biết lấy cái chi mà trả ơn cả!”.
Ngãi ở lại với đất Huế, lấy vợ sinh con. Thế rồi, người chiến sĩ ấy đã ngã xuống lúc không ai ngờ nhất. Ở khu vực con đèo La Hy, thuộc xã Hương Phú, huyện Nam Đông xảy ra vụ cháy 3ha rừng keo. Đám cháy đang bốc lửa dữ dội và tạo ra sức nóng khủng khiếp, anh cùng đồng đội lao vào khu vực trung tâm của đám cháy dập lửa. Khi đám cháy đang dần được khống chế thì một cơn gió mạnh đột ngột chuyển hướng, bốc theo lớp khói bụi và tàn lửa khổng lồ tấp lên khu vực anh Ngãi và một số đồng đội đang dập lửa. Anh chỉ kịp dùng tay đẩy các đồng đội về phía sau tránh nguy hiểm, còn mình bị vùi lấp trong đống tro nóng!
Ở quê nhà, tin dữ báo về… Ông Đức nhớ lại phút giây bàng hoàng đau xót đó: “Hôm đó là ngày 22/3. Tôi đang ở nhà con trai đầu, thì đứa cháu chạy sang báo cậu Ngãi bị tai nạn trong Huế rồi, ông ơi! Tôi vội vàng về nhà, trấn an bà lúc đó đang hoảng loạn. Bà phải bình tĩnh, tui mới đi được, lần ni đi xác định nếu con còn, thì ở lại trong đó nuôi con, còn con mất, tui cũng phải ở lại lo công việc cho nó. Bà nhà tôi mắc bệnh tim, không ai cho vô trong đó, sợ bà quỵ mất”.
Sau đó, chỉ có ông và người con rể đầu bắt tàu vào Huế. “Trên đường đi tôi nhận được điện thoại nói bác xuống ga thì đừng có đi mô cả, có người đến đón. Tôi được đơn vị con đưa lên xe, ai nấy đến bắt tay, rồi cứ nhìn tôi chưa dám nói chi hết, tôi nói: Các anh cứ nói thật đi, tui cũng từng là bộ đội, đã chứng kiến nhiều những hy sinh và đồng đội ngã xuống rồi…”.
Và thế là ông được dẫn vào bệnh viện, để nhận con. Người cha già đầu bạc đưa đôi tay run run giở khăn trắng nhìn mặt con lần cuối, nhìn như để xác minh đúng là con mình. Gương mặt chiến sĩ Nguyễn Tuấn Ngãi lặng im. Ông đứng dậy, biết lúc này đây mình phải làm chỗ dựa cho con và các cháu, cùng với đơn vị của con...
Ông Đức kể, hôm qua vợ mình mới ở Bệnh viện về. Mấy bữa trước, có 2 anh mặc quân phục vào nhà chơi. Nhìn thấy áo bộ đội, bà xúc động quá, ngất lịm đi. Trong tất cả những đứa con, Ngãi sinh ra hiền lành nhất, mà sức khỏe cũng yếu nhất. Đứa con ấy lại đi cách xa nhà hàng trăm cây số, chẳng thế vào nhìn mặt con lần cuối, bà nhớ con đau đáu. Nhưng cả bà và ông đều nén nỗi đau, và hiểu con mình hy sinh vì nhiệm vụ, đã sống hết mình, đã là một người con đáng tự hào của cha mẹ, của quê hương.
Qua rồi những năm tháng chiến tranh. Hòa bình đã xanh màu trên khắp dải đất hình chữ S. Nhưng vẫn còn những người lính ngã xuống để bảo vệ quê hương, đồng bào, để giữ vững non sông gấm vóc. Vẫn còn những người mẹ, người cha lặng khóc thương con… Sự hy sinh ấy, nhắc nhở chúng ta cúi mình trân trọng giá trị của cuộc sống trong hòa bình, yên ấm!