Đồng lương không đủ sống
Năm học 2020 - 2021 đã là năm thứ 3 cô giáo trẻ Vi Thị Lệ gắn bó với nghề giáo ưa thích từ tấm bé của mình, với những học trò nhỏ mà cô hết mực yêu thương ở vùng núi cao miền Tây xứ Nghệ quê hương. Qua câu chuyện, được biết: “Năm 2018, Lệ ra trường và xin được làm giáo viên cắm bản tại Trường Tiểu học Nậm Cắn (Kỳ Sơn).
Lệ là giáo viên thuộc diện hợp đồng của trường, ký theo từng năm. Mỗi tháng tiền lương của cô là 3,5 triệu đồng song được trả theo từng học kỳ. Nhà trường cho ứng trước một nửa để đi lại, ăn uống. Hết năm học 2018 - 2019, Trường Tiểu học Nậm Cắn đã đủ giáo viên đứng lớp, Lệ buộc phải nghỉ dạy, đi tìm những trường khác còn thiếu giáo viên để xin “lấp chỗ”.
Năm học 2019 - 2020, Vi Thị Lệ may mắn được Trường Tiểu học Tam Hợp (Tương Dương) ký hợp đồng và phân công về dạy cho các em học sinh người Mông tại điểm trường Phà Lõm; năm học 2020 - 2021 này cô được phân công về dạy cho các em học sinh người Tày Pọng tại điểm trường bản Phồng. 2 năm qua, Lệ được ở gần nhà của mình hơn (thị trấn Thạch Giám) song ngược lại, tiền lương của em lại giảm xuống còn 3 triệu đồng/tháng.
Vất vả là vậy, song Vi Thị Lệ hiện đang hạnh phúc với công việc giáo viên của mình.
Không gì vui bằng được giúp cho các em từ chỗ chưa biết nói tiếng Việt trở nên đọc thông, viết thạo, tiến bộ từng ngày; được các em và phụ huynh yêu thương, kính trọng. Khó khăn, vất vả, chắc chắn rồi cũng sẽ qua. Người dân bản nghèo nhưng mỗi lần nhà có gạo mới, có măng, có trứng lại mang đến biếu, tặng các thầy, cô... làm sao không yêu, không quý được.
Phải quen cuộc sống “4 không”
Giống như Vi Thị Lệ, tình yêu nghề, yêu trường lớp, học sinh vô bờ bến chính là động lực để cô giáo trẻ Trần Thị Hồng Ngân (25 tuổi) rời vùng quê Hưng Nguyên lên với non cao. Năm 2018, cô giáo Ngân về tham gia công tác tại Trường Mầm non Nậm Cắn (Kỳ Sơn).
Khác với cô giáo Lệ, cô giáo Ngân may mắn hơn khi được hưởng chế độ theo Nghị định số 06/2018/NĐ-CP (vào diện viên chức có hưởng lương, bảo hiểm, phụ cấp, tăng lương như giáo viên biên chế). Dẫu vậy, tính chất công việc thì không hề khác nhau.
Sự học ở Huồi Pốc đầy rẫy khó khăn khi mà bố, mẹ không quan tâm nhiều đến việc học của các con. Những đứa trẻ vẫn thường được bố mẹ đưa lên rẫy từ rất sớm và bị “ép” lớn. Khi vận động được trẻ đến trường thì việc ăn, học của trẻ được gia đình hoàn toàn “giao” cho cô giáo.
Con đường độc đạo từ trung tâm xã Nậm Cắn vào Huồi Pốc dài khoảng 16 km, dốc đứng, thường xuyên sạt lở. Trên con đường này, không thể nào kể xiết những lần các giáo viên trượt ngã, bầm tím.
“Hơn 1 năm trời đi lại con đường này, nhưng nó vẫn không chịu quen em, nhất là những ngày mưa. Có những hôm vào đến trường chỉ còn mỗi đôi mắt không lấm bùn đất. Nhiều khi dọc đường chỉ muốn khóc...”.
Điểm trường Huồi Pốc nằm trên một quả đồi cao. Nơi đây, sau 15 năm sử dụng, cơ sở vật chất đã xuống cấp, hư hỏng nhiều, không đảm bảo an toàn. Chân cột, vách gỗ phòng học, nơi ăn, ở của các cô đều mục ruỗng, mối mọt.
Tự tìm cho mình niềm vui
Cô giáo Lô Thị Thanh Hiền (đã có 17 năm dạy tại Trường Mầm non Nậm Cắn, cùng dạy ở điểm trường Huồi Pốc cùng cô giáo Ngân) chia sẻ: “Khó khăn thì nhiều, nhưng rồi, mỗi giáo viên ở đây cũng quen dần, cố gắng vượt qua và tự tìm cho mình những niềm vui. Niềm vui chung của các cô giáo mầm non là được thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, đảm bảo chăm sóc các cháu theo mô hình bán trú dân nuôi trong điều kiện hết sức khó khăn, vất vả; từ đó từng bước giúp các cháu học lên các bậc cao hơn. Niềm vui riêng của bản thân tôi là mỗi ngày cuối tuần được về với gia đình ở Nậm Cắn – nơi có chồng và 2 đứa con trai sống bao bọc nhau do mẹ là cô giáo tuy dạy gần mà lại xa”.
Trường Tiểu học Tri Lễ 4 năm nay có 335 học sinh. Trong đó, trường chính tại bản Mường Lống có 100 em, điểm Huồi Xái có 103 em, điểm Nậm Tột có 43 em và điểm Huồi Mới có 86 em. Toàn trường có 22 lớp, trong đó có 3 lớp ghép với 33 cán bộ, giáo viên.
Năm học mới này, thầy Lữ Văn Phòng sau khi đi hết tất cả các điểm lẻ lại về với Huồi Mới. Được phân công làm giáo viên 2 (dạy các môn như Đạo đức, Nhạc, Họa, Kỹ thuật).
“Được đi dạy cho học trò, được đóng góp cho vùng cao quê hương là mình vui lắm rồi...”.
26 năm dạy học ở Tri Lễ, người thầy giáo này đã thông thạo ngôn ngữ, hiểu rõ phong tục, tập quán của bà con người Mông từ “chân tơ, kẽ tóc”. Những bài học mà thầy đã, đang và sẽ truyền đạt chắc hẳn mang lại nhiều giá trị hơn những con số đơn thuần.
Mong rằng các cấp, ngành có sự quan tâm nhiều hơn đến giáo dục miền núi, những thầy, cô yêu nghề gánh chữ lên non; những nhà hảo tâm khi đến với vùng cao, ngoài sự quan tâm đến những em học trò cũng cần nhiều hơn sự động viên đến những thầy, cô giáo đáng kính trọng ấy.