(Baonghean) LTS: Ma nhai kỷ công bi văn là tấm bia do Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn soạn và khắc lên vách núi Thành Nam, kỷ niệm chiến công của Thái thượng hoàng Trần Minh. Đây là một trong những tấm văn bia “độc nhất vô nhị” trên đất nước ta, tốn nhiều “giấy dó mực Tàu” của nhiều sử gia thời phong kiến. Dù đã qua gần 7 thế kỷ, bài văn khắc trên núi đá năm nào như vẫn còn tươi nét bút. Tháng 7/2011, Văn bia này được Bộ VH-TT&DL công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia...

1. Bia kỷ niệm chiến công của Thái thượng hoàng Chương Nghiêu Văn Triết

Triều đại nhà Trần sau 3 lần đại thắng đế quốc Mông Cổ đã nhanh chóng bắt tay vào việc phục hồi và phát triển đất nước. Dưới sự trị vì của các vị vua sáng và các tôi hiền tướng giỏi thì uy thế của Đại Việt ngày càng lớn mạnh. Nhưng trong thời gian này, các tù trưởng địa phương cũng như các nước láng giềng thường đem quân quấy phá nơi biên viễn. Sau khi đánh dẹp Ngưu Hống ở Đà Giang lại xảy ra việc chúa Ai Lao là Bổng gây hấn vùng biên phía Tây đạo Nghệ An. Năm Ất Hợi niên hiệu Khai Hựu thứ 7 (1335) đời vua Trần Hiến Tông, Thái thượng hoàng Trần Minh Tông quyết định thân chinh, “tự làm tướng đích thân chỉ huy quân đội, hiệu lệnh nghiêm minh, uy thanh vang dội”, do đó “Ai Lao nghe tiếng chạy mất hút”. Thượng hoàng liền lệnh Phát vận sứ Nguyễn Trung Ngạn soạn văn khắc vào vách núi kỷ niệm chiến thắng. Tấm bia hiện còn tại núi Thành Nam, xã Chi Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Nguyên văn chữ Hán, tạm dịch như sau:

776990_small_76035.jpg

Văn bia Ma nhai được khắc lên vách đá

“Đời vua thứ sáu triều Trần nước Đại Việt, Thái thượng hoàng đế Chương Nghiêu Văn Triết nhận được mệnh trời thương mến, làm chủ hết cả bốn cõi, khắp trong đất ngoài bể không ai không thần phục, thế mà nước Ai Lao nhỏ bé kia còn ngang ngạnh với giáo hóa của triều đình. Cuối thu năm Ất Hợi, nhà vua thống lĩnh sáu quân đi tuần ở cõi Tây. Thế tử nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, nước Tiêm và tù trưởng đạo thần là Quỳ, Cầm, Xa, Lặc rồi các bộ mán mới phụ thuộc là tù trưởng rợ Bôi Bồn và rợ Thanh Xa đều dâng sản vật của địa phương mình và tranh nhau đón rước. Chỉ một mình tên giặc Bổng cứ giữ thói u mê, sợ tội mà chưa tới chầu ngay. Đến cuối đông, vua đóng quân ở cánh đồng Cự Đồn thuộc Mật Châu, rồi lệnh cho các tướng cùng với quân lính mọi rợ vào tận nơi ở của chúng. Tên giặc Bổng nghe uy thế liền trốn chạy, vua bèn xuống chiếu đem quân về. Ngày tháng 12, đông nhuần, năm Ất Hợi, niên hiệu Khai Hựu thứ 7, khắc vào đá”.

Toàn bộ văn bia ngắn gọn chỉ 14 dòng với 155 chữ, khắc sâu trên vách núi đá vôi, ngoảnh mặt trông ra sông Lam và đường bộ qua lại như thách thức với thời gian, là minh chứng cho hào khí Đông A của vương triều Trần cũng như tinh thần bảo vệ bờ cõi và nhân dân Đại Việt, đồng thời cũng là lời nhắc nhở, răn đe cho những tù trưởng hay thủ lĩnh có mưu đồ chống phá lại sự ổn định và thống nhất lúc bấy giờ.

2. Bút tích của vị Hoàng giáp nổi tiếng triều Trần

Không giống như các bia đá khác, Bia Ma nhai kỷ công bi văn khắc trực tiếp lên núi đá và không ghi rõ người soạn, người viết chữ, kể cả hoa văn trang trí. Nhưng nó lại được các bộ chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên hay Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn nhắc đến và cho biết tác giả là Nguyễn Trung Ngạn - Hoàng giáp khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hưng Long thứ 12 đời vua Anh Tông triều Trần (1304). Ông trải qua nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình như Gián quan, Ngự sử đài Thị ngự sử, Nội mật viện phó sứ... Đặc biệt, năm Giáp Dần (1314) ông được cử đi sứ nhà Nguyên. Đến năm 1341, ông được giao giữ chức Kinh sư đại doãn (tương đương chức Bí thư Thành ủy Hà Nội ngày nay) và là vị Kinh sư đại doãn nổi tiếng nhất trong lịch sử Thăng Long - Hà Nội. Chính vì vậy, trên địa bàn Hà Nội hiện nay có đến 7 ngôi đền thờ ông. Ông được Phan Huy Chú đánh giá là 1 trong 10 người phù trợ có công lao thời Trần, ngang hàng với Thượng tướng Trần Quang Khải, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Đoàn Nhữ Hài, Phạm Sư Mạnh.

Không chỉ là vị quan nổi tiếng về chính sự, ông còn một nhà văn, nhà thơ, một soạn giả tài năng. Về luật pháp, ông cùng Trương Hán Siêu soạn bộ Hình thư và Hoàng triều đại điển nay không còn. Về thơ, ông để lại trên dưới 84 bài chép rải rác trong các tập thơ của các tác giả đời sau như Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên,Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích và Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn. Vì có tài văn học, nên những lần Thượng hoàng thân chinh đều lệnh ông hộ giá để biên soạn thực lục. Ma nhai kỷ công bi văn là tác phẩm văn học duy nhất còn lại của ông.

3. Những “kỉ lục” của bia Ma Nhai kỷ công bia văn

Bia Ma Nhai tuy chỉ 14 dòng 155 chữ nhưng lại là một tấm bia có diện tích lớn (213cm x 155cm). Điều khá thú vị là nét chữ của nó to đạt mức kỉ lục, xứng đáng xếp vào hàng bia đá có nét chữ lớn nhất Việt Nam. Theo kết quả đo đạc sơ bộ, trung bình mỗi chữ có đường kính khoảng 10,5cm. Sách Đại Nam nhất thống chí chép “…chữ to bằng bàn tay, khắc sâu vào đá hơn 1 tấc, nay hãy còn”

Theo thống kê của Viện Viễn Đông bác cổ, tính đến năm 1945, ở nước ta đã tìm thấy 1.157 văn bia, chủ yếu là có từ triều Lê và triều Nguyễn, còn văn bia của các triều đại trước đó rất ít và hầu hết đều tập trung chủ yếu tại địa bàn đồng bằng sông Hồng. Tuyệt đại bộ phận những văn bia kể trên đều là những văn bia chế tác. Độc đáo hơn cả phải kể đến loại văn bia “Ma nhai” (ma: mài, nhai: vách núi), bởi đây là bia khắc trực tiếp lên núi đá. Những văn bia này thường ghi lại các cuộc hành quân hay tuần du của vua chúa, như bia Ma nhai “Thân chinh Phục Lễ Châu Đèo Cát Hãn” ở Lai Châu và Hòa Bình của vua Lê Thái Tổ, bia Ma nhai “Quế Lâm ngự chế” của vua Lê Thái Tông, hay các bài thơ khắc trên vách núi tại động Hồ Công của vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, chúa Trịnh Sâm, Xuân quận công Nguyễn Nghiễm... Văn bia Ma nhai kỷ công bi văn của Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn chính là tấm văn bia Ma nhai cổ nhất tại Việt Nam hiện nay. Đây là một tư liệu đặc biệt quý hiếm trong công tác nghiên cứu sử học, văn học. Tháng 7/2011, Bộ VHTT&DL đã công nhận bia Ma nhai kỷ công bi văn là Di tích Lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đây là một di sản quý giá cần phải được quan tâm, bảo tồn để lưu lại dấu ấn thời gian của cha ông ta, nhằm giáo dục cho thế thệ trẻ về lịch sử của dân tộc.


Trần Tử Quang