(Baonghean) - Sau thành công của vở cải lương “Chuyện tình Khau Vai”, PGS - TS Nguyễn Thế Kỷ, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương lại có thêm một tác phẩm kịch bản được chuyển thể cải lương gây tiếng vang lớn trong đời sống văn hoá với những suất diễn kín rạp tại Hà Nội và một số tỉnh, thành, đồng thời được Đài Truyền hình Việt Nam giới thiệu trong chương trình “Nhà hát Truyền hình” tối thứ Bảy ngày 28/2 vừa qua: vở cải lương”Mai Hắc Đế”. Liên hệ để phỏng vấn tác giả kịch bản, anh nói với chúng tôi, hãy để nó là một cuộc trò chuyện thân tình. Anh muốn nói ở tâm thế của một người con xứ Nghệ, một đồng nghiệp cũ của chúng tôi. Và anh đã trải lòng về “đứa con tinh thần” ấy với tất cả xúc cảm dâng trào...
- Ngạc nhiên, thú vị và khâm phục, ấy chính là cảm xúc của những đồng nghiệp cũ, những phóng viên Báo Nghệ An khi Tổng Biên tập một thời của mình trở thành một tác gia kịch. Điều gì đã gợi mở cho anh “bước chân” vào địa hạt sân khấu, điều gì gắn bó anh với sân khấu cải lương?
- Thú thật, cho tới trước tháng 4 năm 2012, mình chưa tính đến việc viết một tác phẩm sân khấu dài hơi (nếu có, sẽ chờ thời gian nữa, chắc là lúc đã nghỉ hưu). Rồi chuyến đi Trường Sa hơn 10 ngày đêm lênh đênh trên biển, qua hơn 10 hòn đảo và điểm đóng quân của bộ đội ta, mình xúc cảm viết một bài thơ mới. Bài “Thao thức Trường Sa”. Số phận bài thơ này khá kỳ lạ: được Báo Nhân Dân đăng đúng ngày 30 tháng 4, Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, ngay khi mình và đoàn công tác vừa đặt chân lên đất liền. Bài thơ tiếp tục được Báo Văn Nghệ đăng tải sau đó 1 tuần. Hai tuần tiếp theo, được Nhạc sỹ Lê Đức Hùng phổ nhạc. Nhạc và thơ được hát lên, ngâm lên đến hàng trăm lần 2 năm qua. Và đây, nguyên do mình đến với sân khấu cải lương, ấy là khi chính bài thơ này được Đạo diễn Triệu Trung Kiên, Nghệ sỹ Quang Khải của Nhà hát Cải lương Việt Nam chuyển thành một bài cải lương vọng cổ. Rồi hai anh bạn trẻ này “gạ gẫm” mình chuyển thể một số bài thơ khác sang thể loại này. Nhấn thêm một bước nữa, các bạn ấy “gạ” viết một tác phẩm sân khấu hoàn chỉnh để chuyển thành vở sân khấu cải lương. Mình chưa biết viết, biết ca một câu cải lương trọn vẹn. Nhưng mình hiểu lời một bài cải lương cần có âm điệu mượt mà, giàu tính nhạc, giàu hình ảnh, và dứt khoát không được sáo rỗng. Thơ sẽ làm được điều đó. Khi chuyển thể cải lương, nếu viết tốt, có thể sử dụng gần như nguyên vẹn các câu thơ. Vậy là mình viết kịch... thơ.
- Hoá ra, cái duyên tình cờ là thế. Bây giờ, anh nói riêng về vở “Mai Hắc Đế” nhé. Xem nào, đề tài lịch sử, viết về một nhân vật lịch sử đã từ rất xa của dân tộc, để đảm bảo tính xác thực của nó chắc hẳn tác giả gặp khó khăn không nhỏ?
- Mai Thúc Loan - Mai Hắc Đế, cách chúng ta hơn 1.300 năm. Lịch sử viết về Ông không nhiều và rất không đầy đủ, ngay cả sách giáo khoa hiện hành cho rằng cuộc khởi nghĩa của Ông nổ ra năm 722, thực ra là năm 713; chỉ diễn ra ở Hoan Châu nhưng theo sử liệu mới thì mang tính toàn quốc; lý do khởi nghĩa là do một số phu “cống vải” bị đánh đập mà vùng lên (tự phát), thực tế thì Ông và những người tâm phúc chuẩn bị tích cực, chủ động, kĩ lưỡng, tầm chiến lược cho cuộc khởi nghĩa đến mười mấy năm ròng; Ông và nghĩa quân xây Thành Vạn An, đánh chiếm lỵ sở Châu Hoan, Châu Diễn, Châu Ái (Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa ngày nay), kéo đại quân đánh và chiếm Thành Tống Bình (Hà Nội ngày nay), quét quân xâm lược nhà Đường ra khỏi bờ cõi, xưng đế (Mai Hắc Đế, Vua Đen), trị vì gần 10 năm; Ông biết liên kết tuyệt vời với các hào kiệt trong nước, nhất là với cụ Phùng Hạp Khanh (thân phụ của vua Phùng Hưng sau đó) ở Đường Lâm, với vùng Điều Yêu, Hải Phòng ngày nay, đặc biệt là với 3 nước phía Nam Lâm Ấp, Chân Lạp và Kim Lân, nâng số quân lên 30 - 40 vạn để đánh đuổi quân xâm lược...
Mình cố gắng đọc, tra cứu, tìm hiểu nhân vật Mai Thúc Loan - Mai Hắc Đế và các sự kiện lịch sử liên quan đến Ông qua nhiều cuốn sách, tài liệu như Đại Việt Sử ký Toàn thư, Việt điện u linh, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Hương Lãm Mai Đế ký, Đại Việt sử ký tiền biên, Đại Nam thống nhất chí, Lịch triều hiến chương loại chí, Nghệ An ký, Đại Nam thực lục, Thiên Nam ngữ lục, An - Tĩnh cổ lục...; các bộ sử Trung Quốc như Tân Đường thư, Cựu Đường thư, Tống sử giám, Quảng Tây thông chí... Mình thực sự được tiếp sức, được thắp lên nguồn cảm hứng khi được dự cuộc Hội thảo khoa học Kỷ niệm 1.300 năm khởi nghĩa Hoan Châu (do Viện hàn lâm KHXHVN phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An tổ chức tại Nam Đàn, Nghệ An năm 2013); Hội thảo về Mai Thúc Loan và cuộc khởi nghĩa Hoan Châu do khoa Lịch sử, Trường Đại học Vinh tổ chức năm 2008. Có một cuốn sách, tuy hàm lượng khoa học không thật cao nhưng cảm xúc, tấm lòng, sự bền bỉ trong tìm tòi, nghiên cứu của tác giả thì rất đáng trân trọng. Đó là cuốn “Mai Hắc Đế, truyền thuyết và huyền thoại” (Đinh Văn Hiến, Đinh Lê Yên)...
Khi viết xong kịch bản văn học vở “Mai Hắc Đế”, mình đã nhờ Giáo sư Sử học hàng đầu Phan Huy Lê và một số nhà nghiên cứu khác đọc, thẩm định, và may thay, mọi người đều khích lệ, ghi nhận, khen ngợi. Mình cũng tạo điều kiện để Đạo diễn Triệu Trung Kiên, nghệ sỹ Quang Khải của Nhà hát Cải lương Việt Nam về Nam Đàn mấy ngày để tận mắt thấy vùng địa linh nhân kiệt, có thêm cảm hứng sáng tạo, xây dựng và hoàn thành vở cải lương...
- Có thể thấy lấp lánh trong vở kịch rất nhiều chi tiết sáng tạo nghệ thuật nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ với lịch sử, không thoát ly lịch sử. Mảnh đất Nam Đàn nói riêng, mảnh đất xứ Nghệ nói chung hiện lên trong đó hẳn bằng tất cả cảm nhận của người con yêu quê, đau đáu với quê hương? Có mối liên hệ nào không trong thời gian anh làm Bí thư huyện Nam Đàn với việc lựa chọn nhân vật Vua Mai của vùng đất này?
- Khi bắt tay viết vở “Mai Hắc Đế”, tất nhiên, mình có một lưng vốn quý báu gom góp được trong những năm làm Bí thư Huyện ủy Nam Đàn. Nam Đàn không chỉ là địa linh nhân kiệt, có lẽ còn hơn thế nữa. Mai Hắc Đế, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh và bao anh hùng hào kiệt, danh nhân văn hóa tầm quốc tế, quốc gia là người con của mảnh đất này. Di tích văn hóa - lịch sử về Chủ tịch Hồ Chí Minh, những công trình khoa học, văn hóa, nghệ thuật về Người... chúng ta đã có sự quan tâm sâu sắc, đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhưng với 2 di tích của 2 danh nhân Mai Hắc Đế, Phan Bội Châu, chúng ta, ở một chừng mực nào đó, còn có lỗi với tiền nhân. Ngày ở Nam Đàn, mình đã cùng các đồng chí, đồng nghiệp và nhân dân huyện nhà có một bước chuyển về nhận thức và hành động. Khu di tích mộ, miếu thờ, đền thờ Mai Hắc Đế và Thân mẫu của Ngài được tôn tạo, chăm nom. Mình đã mày mò để viết được mấy tấm bia dẫn tích (dù còn đơn giản) để đặt ở các di tích quan trọng phục vụ khách thăm viếng. Khu di tích về Phan Bội Châu cũng được mở rộng không gian, đang tiến hành tôn tạo, nâng cấp. Nếu còn có sức sáng tạo nghệ thuật, mình sẽ tiếp tục viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về Nhà yêu nước, nhà văn hóa lớn Phan Bội Châu và một số danh nhân khác của quê hương xứ Nghệ.
- Nhiều bài báo đã phân tích về giá trị tác phẩm kịch bản “Mai Hắc Đế” cũng như khi vở diễn này đến với công chúng. Người ta nhắc nhiều về lòng yêu nước, về bảo vệ chủ quyền... Ngoài ra, không biết tác giả còn muốn chia sẻ điều gì nữa chăng, thông qua vở kịch này?
- Điều muốn nói thì nhiều lắm, hẳn rằng ai cũng cảm nhận được những gì mình gửi gắm qua nhân vật Mai Thúc Loan - Mai Hắc Đế. Ông xuất thân từ dân nghèo, yêu mến, gắn bó máu thịt với nhân dân, yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, đã đứng lên đánh đuổi quân xâm lược nhà Đường và bè lũ tay sai, lập quốc hiệu (Vạn An), quốc đô (Vạn An và Tống Bình), xưng Đế (Mai Hắc Đế), tạo nên một trang sử hết sức oai hùng trong lịch sử đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Mai Thúc Loan - Mai Hắc Đế nêu tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, ý chí độc lập, tự do, tự cường, tự tôn dân tộc. Ông là lãnh tụ khởi nghĩa đầu tiên trong lịch sử dân tộc biết liên kết với các nước lân bang để đánh thắng kẻ thù hung hãn lúc đó (nhà Đường thời thịnh trị); phải chăng, có thể gọi sự liên kết, hợp tác này là “tiền thân” của Hiệp hội ASEAN hiện nay?.
Cùng với hào khí của Mai Thúc Loan - Mai Hắc Đế, của khởi nghĩa Hoan Châu, của dân tộc ta lúc đó, vở diễn còn có câu chuyện tình rất thật, rất đẹp, rất xúc động của chàng trai Mai Thúc Loan với Đinh Thị Ngọc Tô (Ngọc Tô), con gái tài sắc vẹn toàn của ông Đinh Thế, cha nuôi của Mai Thúc Loan. Là tình yêu, sự ngưỡng mộ Mai Thúc Loan của một người con gái khác: Phạm Thị Uyển, tài sắc, chí khí, có tài cung kiếm, cháu ngoại ruột của cụ Phùng Hạp Khanh, quan Lang đạo, châu Đường Lâm, Sơn Tây và gọi Phùng Hưng, Phùng Hải, Phùng Dĩnh là cậu ruột, là 3 thủ lĩnh chống Đường nửa sau thế kỉ thứ VIII. Là tình nhà, nghĩa nước sâu nặng của Mai Thúc Loan với các con Mai Thị Cầu (tên gọi khác là Mai Thư Cầu, con gái đầu); Mai Bảo Sơn (trai thứ, Hoàng tử cả), Mai Kỳ Sơn (trai thứ 3, Hoàng tử thứ), hy sinh cả gia đình Vua Mai để chống quân xâm lược nhà Đường; là tình cảm vua tôi, tướng sỹ, vợ chồng, anh em, đồng bào, đồng chí, lân bang...
Vở diễn cũng có những trường đoạn người dân An Nam mở rộng vòng tay hữu nghị, nhân ái, nhân văn đón những thi sỹ, văn nhân nhà Đường yêu hòa bình, trọng tình hữu nghị giữa hai dân tộc (với Thần thi Vương Bột và thân phụ của ông...); nhưng cũng rất anh dũng, quật cường đánh tơi tả những kẻ xâm lược bạo tàn “trời không dung, đất không tha” khi mang binh đao, tham vọng xâm chiếm lãnh thổ đặt chân đến nơi này. Vở diễn nói về một sự kiện lịch sử, những nhân vật lịch sử, nhất là Mai Hắc Đế, nhưng cũng mang những thông điệp sâu sắc, cần thiết, bổ ích cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Mình nghĩ, bằng bút pháp nghệ thuật (kịch nói, cải lương, dân ca Nghệ Tĩnh...), vở diễn đã góp phần làm rõ hơn, khẳng định (và công bố rộng rãi, một cách chắc chắn) những sự thật lịch sử, nhân vật, sự kiện... một thời gian dài bị bụi thời gian che phủ.
- Cảm ơn PGS-TS Nguyễn Thế Kỷ! Mong rằng sắp tới sẽ có thêm những vở diễn mà anh ở vai trò tác giả kịch bản, đặc biệt là những vở về các danh nhân quê Nghệ nổi tiếng mà anh đang ấp ủ thực hiện!
T.V (Thực hiện)