(Baonghean) -Đi qua hơn nửa cuộc đời, trải qua nhiều biến cố thăng trầm của cuộc sống nhưng ký ức về chiến tranh vẫn ám ảnh ông Đặng Văn Minh (xóm 3 Mai Thành, xã Diễn Thành, Diễn Châu, Nghệ An). Cách đây hơn nửa thế kỷ, ông đã từng được mệnh danh là "rái cá sông Bùng" bởi thành tích 50 ngày tham gia cứu gạo ở cầu Thực phẩm Diễn Thành….
50 ngày cứu gạo
Những năm tháng chiến tranh chống Mỹ cứu nước, cầu Thực phẩm và Trạm trung chuyển lương thực (xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu) trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt của kẻ thù. Ngôi làng bé nhỏ nằm giữa mênh mông nước sông Bùng và kênh nhà Lê bao quanh sau nhiêu trận "dội bom" của quân thù đã gần như bị xóa sổ. Nhưng đây lại là địa điểm làm nơi tập kết trung chuyển gạo, muối để chi viện cho chiến trường miền Nam.
Một đêm tháng 6/1967, đoàn thuyền (chủ yếu là thuyền ván và thuyền nan) chở gần 100 tấn gạo đậu dọc dòng kênh nhà Lê đợi bốc dỡ sang cầu trước khi được chất lên các xe tải chi viện cho chiến trường thì bị máy bay Mỹ tập kích. Chỉ trong chốc lát, dòng nước cuộn lên một màu đục ngầu của bùn, đoàn thuyền biến mất kéo theo gần 100 tấn gạo chìm xuống lòng sông. Bom vừa dứt, đội dân quân tự vệ Diễn Thành và bà con nhân dân đã khẩn trương triển khai các phương án cứu gạo.
Lật từng trang nhật ký, ông Minh hồi tưởng những chiến công hào hùng
"Hồi đó tôi đang là học sinh cấp 3, chưa được tham gia đội dân quân tự vệ nhưng cũng lao xuống sông cứu gạo", ông Đặng Văn Minh nhớ lại.
Lớn lên trong ngôi làng được bao quanh bởi 2 dòng sông, tuy vóc dáng nhỏ nhưng bù lại ông Minh rất giỏi bơi lội và đặc biệt có năng khiếu về lặn. Một chút năng khiếu cùng với khổ công luyện tập nên ông có thể nín thở gần 3 phút dưới nước và lặn một hơi từ bên này sang bên kia sông. Mấy ngày đầu, gạo chìm gần bờ sông nên việc trục vớt gạo đơn giản hơn, càng về sau, số gạo bị bom đánh chìm cũng với thuyền triềng ra xa, mọi người gần như bó tay thì nhiệm vụ cứu gạo được giao cho những thanh niên giỏi bơi lội.
Công việc cứu gạo phải làm từ chập tối đến đêm để tránh địch phát hiện hiện. Dưới đáy sông, hàng trăm chiếc thuyền bị bom đánh vỡ, mảnh gỗ, đinh tua tủa. Càng xuống sâu càng tối như mực, phải cố gắng tránh dẫm mảnh gỗ và đinh vừa quờ quạng tìm vị trí các bao gạo. khi xác định được vị trí của thuyền chìm ông báo hiệu để những người tham gia vớt gạo dùng sào cố định vị trí thuyền. Mỗi khi lấy được gạo, ông bám theo sào nổi lên để dân làng chuyển vào bờ. Hiếm khi nào ông chịu nổi lên mà chưa tìm được gạo. Cái dáng bé nhỏ thoăn thoắt giữa lòng sông như một con rái cá. Biệt danh "rái cá sông Bùng" gắn với ông từ đó. Suốt 50 đêm liền, ông ngụp lặn mang lên hàng chục tấn gạo.
"Gạo ngâm dưới nước quá lâu nên đưa lên mà mở ra ngay là bục. Số ít được mang chần qua nước sôi, số còn lại mang ra phơi nắng. Hồi đó nhà nào cũng nhường sân để phơi gạo. Gạo phơi lại bở lắm, nấu lên đưa vào miệng chẳng có cảm giác là đang ăn cơm, nhưng hồi đó hạt gạo quý như hạt vàng, chỉ cần ăn cho no bụng mà chiến đấu là được. Nhân dân thương bộ đội, vét thóc gạo trong nhà đổi gạo ngâm nước, nhường gạo ngon cho chiến trường", ông Minh nhớ lại.
Thi sỹ giữa chiến trường
Kỳ tích 50 đêm vớt gạo trên sông không giúp ông "lọt" vào danh sách tuyển quân thời đó. Nhưng ông lại là con độc đinh (độc nhất), lại có chút vốn liếng chữ nghĩa nên được đi học làm giáo viên. Mãi đến năm 1972, cơ duyên được làm "bộ đội Cụ Hồ" mới đến với ông, khi một giáo viên ở huyện Quỳ Châu không xuống tham gia tuyển quân kịp.
Gia nhập Đoàn 22A (đoàn hơn 170 người, toàn là giáo viên, giáo sinh của Ty Giáo dục Nghệ Tĩnh tăng cường cho chiến trường) đóng quân ở xã Nghĩa Lộc (huyện Nghĩa Đàn). Lúc này Đặng Văn Minh được giao nhiệm vụ làm tiểu đội phó. Sau một thời gian huấn luyện, ông cùng 22 người nữa được lựa chọn gia nhập đoàn quân kéo pháo vượt Trường Sơn sang nước bạn Lào với chức vụ trung đội trưởng kiêm khẩu đội trưởng của 1 khẩu đội pháo, về sau đơn vị của ông nhập tuyến vào Đoàn 559 .
Giữa bom đạn khốc liệt, tâm hồn thi sỹ trỗi dậy, ông làm thơ về những gian khó trong hành quân, trong chiến đấu: "Xưa ta nghe Trường Sơn/ Tưởng rừng già hoang dã/ Nay ta vào Trường Sơn/ Đường mở về muôn ngả... Trường Sơn giờ đẹp lắm/ Như tình yêu đôi mình". Hay những câu thơ tràn đầy niềm tin về ngày mai thắng lợi: "Con chợt thấy ngày về sáng lạng/ Nhìn em thơ cắp sách tới trường". Nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ thân yêu cũng được ông khắc họa giản dị, mộc mạc bằng những câu thơ viết dọc đường hành quân. Tình yêu dành cho mẹ đã trở thành động lực giúp ông vững vàng hơn trong muôn vàn gian khổ của cuộc chiến tranh. "Con vẫn biết mẹ thương con lắm đấy/ Song vai con hiếu nghĩa chưa tròn/ Hẹn hết giặc, ngày con trở lại..."
... Chuyển qua nhiều đơn vị công tác khác nhau, năm 1982 ông về công tác tại trường THCS Diễn Ngọc cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2009. Thỉnh thoảng, ông giáo Minh lại lần giở những trang nhật ký, những trang thơ viết giữa chiến trường đã sờn cũ ra lặng lẽ hồi tưởng về những ngày tháng khốc liệt của chiến tranh. Con "rái cá" ngày ấy giờ sống cuộc sống điền viên, chăm lo ruộng vườn và làm chủ một gian hàng tạp phẩm để đỡ đần vợ con.