Về nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu của năm 2019, Nghị quyết nêu rõ: Tăng cường năng lực, chủ động, phân tích, dự báo, theo dõi sát diễn biến tình hình quốc tế, trong nước để chủ động có đối sách phù hợp và kịp thời. Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
Nghị quyết cũng nhấn mạnh đến yêu cầu cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thế giới. Kiên định mục tiêu đổi mới thể chế là đột phá quan trọng, tập trung rà soát, hoàn thiện các cơ chế chính sách tạo chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, nhất là những ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao.
Các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội năm 2019:
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 6,6-6,8%;
- Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng 4%;
- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 7-8%;
- Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 3%;
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 33-34% GDP;
- Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) giảm 1-1,5%, riêng các huyện nghèo giảm 4%;
- Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%;
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 60-62%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ đạt 24-24,5%;
- Số giường bệnh/một vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 27 giường;
- Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 88,1%;
- Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường 89%;
- Tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,85%./.