(Baonghean) - Năm 1953 ấy, chúng tôi phải học đêm. Mỗi đứa một đèn chai, vì máy bay của Pháp bay rè rè cả ngày, loại Đacôta hay Bêvanhxít, (nghe anh tôi gọi vậy). Nó bay sát ngọn tre, lúc thì thả hàng thúng truyền đơn bay lả tả như bươm bướm, lúc chúng bắn ràn rạt khắp đồng, rượt theo trâu bò, người đi cày, đi cấy. Anh tôi lại bảo chúng bắn đạn đui - xết, tôi chẳng biết gì, chỉ biết đi nhặt ca tút to như ngón chân cái, bằng đồng vàng chóe về chơi. Vì thế ban ngày cả làng vắng tanh, cứ gà gáy là dậy nấu cơm, nắm trong mo cau, hay khoai xéo, bỏ cối đá, ép lại như chiếc bánh dày khổng lồ, nước thì đựng vào quả bầu khô, rồi gồng gánh dắt díu nhau đi sơ tán. Nhà thì lên núi Phụng, chui vào cái hang, nhà tôi ra cồn Mả Đảo, nghe nói nơi ấy là bãi chiến trường ngày xưa khi ông nội tôi dấy binh chống Pháp theo chiếu Cần Vương. Nghĩa khí thì lớn nhưng thế thời đã kiệt, nên nghĩa binh bại trận thây chết đầy bãi, từ đó gọi là cồn “Mả Đảo”.

Anh tôi khoét sâu vào chân cồn những hố hầm ếch, lấy que gác từ mép cồn xuống ruộng, rồi rải rạ lên che. Lúc thường thì trải chiếu nằm dưới mái, khi có máy bay thì chui xuống hầm ếch, đến chập choạng tối, trẻ con thì trở về nhà đi học, đi chơi, người lớn thì đập trâu đi cày, đi bừa, đến vụ lúa con gái thì làm cỏ, tát nước dưới trăng, lúc đầu cũng sợ, cũng khổ, nhưng rồi cũng quen dần mà lũ trẻ chúng tôi lại thích, tha hồ nghịch đất, đúc dế chọi khắp bãi, khi nào nghe tiếng máy bay thì chạy về chui lọt vào hầm. Máy bay “thằng tây” bay chậm như rùa, chúng tôi còn chạy nhanh hơn. Cuộc sống cứ thế trôi đi…

794285_small_95695.jpg

Người nữ anh hùng được giao nhiệm vụ thu dọn chiến trường và xây dựng kinh tế.

Tháng này thì cả làng sôi sục, vì có lệnh làng tôi được lập một đại hội dân công hỏa tuyến lên Điện Biên. Thanh niên cả làng náo nức, ai cũng muốn xin đi. Anh Chấn, con bác tôi, được cử làm đại đội trưởng và tuyển quân cho làng. Chị tôi mới mười bảy cũng đòi đi, mẹ không cho đi thì khóc đứng khóc ngồi, chạy ngược, chạy xuôi lên xin anh tôi. Chẳng biết khéo nịnh thế nào mà anh tôi đồng ý. Tối ấy, anh Chấn xuống nhà tôi. Chị tôi nép sau cửa buồng vui ra mặt.

- Thím ạ! Tuy em nó còn mấy tháng nữa mới đầy mười tám, nhưng được cái nhanh nhẩu khỏe mạnh, hơn nữa lần này có cháu đi, thím cứ cho nó đi, có vất vả mới nên người, không gánh được nặng thì cháu cho gánh nhẹ.

Mẹ tôi lưỡng lự một lúc rồi nói:

- Thôi thì đành vậy, thím giao cho anh kèm cặp em, con gái dặm trường, lại bom đạn thím lo lắm. Chị tôi từ trong buồng chạy tọt ra ôm lấy cổ mẹ tôi.

- Hoan hô mẹ! Mẹ không được đổi ý đâu nhé!

- Tổ cha cô! Đúng là con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.

Hôm sau, mẹ tôi mua mấy mét vải đen, may cho chị tôi ba chiếc quần để thay váy. Anh tôi phải ra mãi ngoài thị xã, mua cho chị tôi hai đôi giày bata, mẹ còn cẩn thận nhúng giày vào nước nâu đặc phơi khô rồi trát bùn vào giày cho nhem nhuốc, mẹ bảo để trắng lỡ máy bay trông thấy, nhưng thực chất là để cho vải giày bền chắc hơn. Anh tôi thì lo đi kiếm dây chun để buộc ống quần.

Cả tuần ấy làng tôi sôi lên sùng sục như có hội, nhà tôi rộng nên anh Chấn chọn làm nơi tập kết. Cứ nhà nào có lợn to thì khiêng đến, nhà tôi có hai con cũng thịt nốt. Năm bảy ông hàng xeo trong làng được điều đến, hàng chục con lợn trắng hếu nằm ở thềm đá nhà tôi. Bọn trẻ được chia mỗi đứa một miếng gan và bong bóng, anh Chấn cho tôi một cái đuôi, nói là ăn đuôi lợn là không bị bệnh nghiến răng. Cả làng xúm vào ăn lòng, húp nước xáo. Sân nhà tôi chật ních người, cười nói ồn ã như chợ vỡ.

Thịt được phay ra, nạc riêng, da, xương, chân dò trả cho chủ lợn, thừa cho bà con làng xóm. Mỡ rán vào sáu, bảy sành đồng, thịt nạc luộc, thái mỏng, cứ một bát thịt, nửa bát muối, bỏ vòa nồi rang khô, cho vào cối giã, lại rang lại thật khô, để nguội, cho vào ống bương, nút là chuối khô, bó từng bó để gánh lên Điện Biên Phủ làm thức ăn cho bộ đội.



Bộ đội cắm lá cờ chiến thắng trên nóc hầm Đờ-cát-tơ-ri.

Mỡ rán kỹ, gần được, mẹ tôi xúc vào mỗi sanh một môi muối rồi vớt tóp, ép làm hai cái đĩa cho hết mỡ, xác kẹp vào hai miếng bánh khô chia cho chúng tôi. Cái mùi thơm bùi, béo của mỡ, của bánh đã 60 năm rồi tôi còn nhớ, thỉnh thoảng tôi cũng làm lại mà chẳng thấy ngon như ngày xưa.

Mỡ nguội đổ vào từng ống nứa, nút kín, trời rét mỡ đông cứ thế gánh lên Điện Biên. Gạo trộn với khoai khô, chẻ tre tươi, đan như đan lồng gà, lót vào thúng, rải rơm, lá chuối khô, đổ gạo kết tròn lại như nồi vồm gánh nước, cứ hai cục một gánh.

Mọi việc đã xong, hai ngày sau đại hội dân công lên đường, cả làng đưa tiễn, người khóc, người cười, quấn quýt, chèo kéo mãi, nắng lên mới dứt áo ra đi. Anh Chấn đeo xà cột đi không, còn chị tôi gánh muối thịt, mỗi đầu năm – sáu ống bương, quần thắt ống, lưng thắt nịt, chân đi giày, trông thật ra dáng. Anh tôi bảo đoàn ra Nho Quan, rồi qua suối rút Hòa Bình, qua Châu Yên, Mộc Châu, lên Sơn La, qua đèo Pha Đin đến Tuần Giáo, rồi sẽ xuống Điện Biên Phủ. Đi nhanh cũng phải một tháng. Tôi nghe vậy chứ biết chẳng Tuần Giáo, Sơn La là đâu, chỉ nghĩ đường chắc dài lắm! Và thương nhớ chị tôi. Nhà tôi bỗng vắng ngắt, không còn tiếng hát véo von, tiếng cười của chị tôi. Mẹ tôi hay ngồi thở dài một mình.

Ba tháng sau thì chị tôi trở về, cùng với tin chiến thắng Điện Biên Phủ. Chị gầy xanh, mái tóc đen dài chấm gót không còn nữa, tóc thưa thớt, ngắn cũn. Chị bảo lên Điện Biên hơn 1 tháng thì bị sốt rét, cứ hai ngày một cơn, rét từ ruột rét ra. Cả nhà tôi đau buồn, bởi trên đầu chị là một vành khăn trắng, chị để tang cho anh Chấn tôi.

- Lên qua được Sơn La, 4 ngày sau qua Pha Đin cả đoàn nghỉ lại trong rừng, vì sốt ruột vào nhanh Điện Biên nên mới 5 giờ chiều đoàn đã lên đường. Vừa đến ngã ba Tuần Giáo, một tốp máy bay ập đến bỏ bom, bắn đạn như vãi trấu. Anh chạy ngược xuôi hò hét cho cả đoàn tản vào rừng. Gần đến chỗ con, anh vừa gọi tên con, thì một loạt đạn quật anh ngã ngay bên vệ đường. Con nhào tới, anh nhìn con mà không nói được gì nữa, rồi anh tắt thở trên tay con.

Chị tôi kể với mẹ tôi đến đây thì òa khóc. Cả nhà khóc theo.

Một tháng trời chị tôi ốm lăn, ốm lóc, người ta bày đào con giun khoang cổ, rửa sạch bỏ vào ấm tích 9 con, vò chè xanh ém vào, đổ nước sôi ủ kín sau một giờ rót ra bát, pha thêm mật mía, uống cả bát tô, nằm đắp chiếu cho mồ hôi nhớt vã ra. Nhờ thế, chị tôi mới cắt được cơn sốt rồi khỏe dần.

Bây giờ chị tôi đã gần 80 tuổi, mỗi lần về thăm chị, chị em lại ngồi kể về ngày ấy Điện Biên, và thắp cho anh nén hương tưởng nhớ…


Xuân Chuẩn (Quỳnh Lưu)