Người đầu tiên kết án và thực thi bản án với chủ nghĩa thực dân
Trên cuộc hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến Pháp, Mỹ, Anh… Tại những nơi này Người đã nghiên cứu một số cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu nhất thời cận đại và nhận ra bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa phương Tây: “Trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa” và kết luận “cách mệnh tư bản là cách mệnh chưa đến nơi”.
Năm 1919, Chủ tịch Hồ Chí Minh tham gia Đảng Xã hội Pháp. Trong các cuộc họp, Người thường xuyên tố cáo những tội ác của chủ nghĩa thực dân, kêu gọi các đồng chí của mình giúp đỡ cách mạng ở thuộc địa và Người cũng phê phán những ý kiến xem thường vấn đề này: “Nếu đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu đồng chí không bênh vực cho các dân tộc thuộc địa thì đồng chí làm cái cách mạng gì? Không chỉ tham gia các cuộc họp của chi bộ mà thôi, tôi còn đến những chi bộ khác để bênh vực lập trường “của tôi”… ”.
Tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tours diễn ra từ ngày 25 đến ngày 30/12/1920, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là đại biểu thuộc địa Đông Dương đã nhân danh toàn thể loài người kêu gọi việc giúp đỡ để các thuộc địa giành độc lập. Người đã phát biểu: “Nhân danh toàn thể loài người… chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi!”.
Trả lời câu hỏi vì sao lại tán thành Quốc tế III của nữ đồng chí Rose (người ghi biên bản tốc ký Đại hội), Người nói: “Tôi hiểu rõ một điều Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa. Quốc tế III nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Quốc tế II không hề nhắc tới vận mệnh các thuộc địa, vì vậy, tôi bỏ phiếu tán thành Quốc tế III”.
Sau đó, Người hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp và cùng một số đồng chí là người của các thuộc địa như Algérie, Tunisie, Madagascar… thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa (1921).
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên thấy rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa cách mạng vô sản thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc. Người đã phân tích sức mạnh của chủ nghĩa tư bản hiện tập trung ở các thuộc địa chứ không phải ở các chính quốc. Để đàn áp phong trào cách mạng ở các thuộc địa khác và cách mạng ở ngay chính quốc, bọn tư bản đã sử dụng sức mạnh đến từ những người lính trong cả hệ thống thuộc địa của chúng và đội quân đông đảo này được chỉ huy bởi những kẻ có đầu óc thực dân.
Trong bài viết “Đông Dương và Thái Bình Dương” đăng trên tập san Thư Tín Quốc Tế (Inprekorr) của Quốc tế Cộng sản ra ngày 19/3/1924, Người đã chỉ rõ: “Ngày nay chủ nghĩa đế quốc đã tiến tới trình độ hoàn bị gần như là khoa học. Nó dùng những người vô sản da trắng để chinh phục những người vô sản các thuộc địa. Sau đó nó lại tung những người vô sản ở một thuộc địa này đi đánh những người vô sản ở một thuộc địa khác. Sau hết, nó dùng những người vô sản ở các thuộc địa thống trị những người vô sản da trắng”.
Vào tháng 6/1924 tại Đại hội V Quốc tế III, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước” và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Người cũng phê phán các ý kiến xem thường cách mạng ở thuộc địa: “Các đồng chí thứ lỗi về sự mạnh bạo của tôi, nhưng tôi không thể không nói với các đồng chí rằng, sau khi nghe những lời phát biểu của các đồng chí ở chính quốc, tôi có cảm tưởng là các đồng chí ấy muốn đánh chết rắn đằng đuôi. Tất cả các đồng chí đều biết rằng hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng các đồng chí lại khinh thường thuộc địa”.
Sau đó, Người được bầu làm Ủy viên Thường trực Bộ Phương Đông, phụ trách Cục phương Nam của Quốc tế III. Tiếp đó, Quốc tế III đã cử Người tới Quảng Châu (Trung Quốc) công tác nhằm xúc tiến mọi điều kiện để xây dựng một tổ chức cộng sản ở Đông Dương và giúp đỡ các đại biểu cách mạng ở các nước Đông Nam Á.
Năm 1925, Người cùng với các đồng chí của mình là người Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Indonesia, Miến Điện… tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức. Tiếp đó, Người đã sáng lập nên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (6/1925) và sau đó là Đảng Cộng sản Việt Nam (2/1930).
"Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc"
Tại Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1990, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã nhận định: “Với Đại hội Tua, một người dân thuộc địa trở thành một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp ở ngay chính quốc. Với việc tổ chức ra Hội Liên hiệp thuộc địa, một người dân mất nước không chỉ lo giải phóng cho dân tộc mình mà còn lo đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng các dân tộc anh em… Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên viết “Bản án chế độ thực dân”, và cũng chính là người đã cùng với dân tộc người thi hành bản án”.
Ngày 25/9/1969, tại một cuộc mít tinh ở Thủ đô Tokyo (Nhật Bản) để tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Giáo sư Singo Sibata đã đánh giá: “Trước tiên chúng ta phải nhìn thấy những cống hiến của Người đã góp phần đào sâu và phát triển lý luận của chủ nghĩa Lênin đối với các vấn đề dân tộc và thuộc địa... Những cống hiến của Cụ Hồ Chí Minh đã thực sự mở ra một giai đoạn mới trong những lý luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Dạo ấy có rất ít những người Mác-xít như Cụ Hồ Chí Minh, sinh ra ở một nước thuộc địa và bản thân đã trải qua một cuộc sống như ở Việt Nam cũng như ở nhiều thuộc địa khác. Bản thân Lênin cũng không có kinh nghiệm như vậy. Cụ Hồ Chí Minh là một trong số rất ít những người Mác-xít có những kinh nghiệm như thế. Chính điều này đã cho phép Người phát triển hơn nữa lý luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa”.Giáo sư Singo Sibata cũng đã nhấn mạnh: “Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc”.
Ngọn cờ thúc đẩy hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã tạo cảm hứng cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Bởi nếu Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ báo hiệu sự sụp đổ của chế độ thực dân Anh tại 13 bang thuộc địa Bắc Mỹ thì Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” đãbáo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Trong cuốn “Thế giới bàn về Việt Nam”, học giả nước Anh Thomas Hodgkin đánh giá Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là một sự kiện “quan trọng nhất trong lịch sử thế giới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga”.
Thomas Hodgkin đã viết rằng: “Đó là một cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, một Đảng chỉ mới ra đời được 15 năm. Đó là cuộc cách mạng đầu tiên thành công trong việc lật đổ chính quyền của chế độ thuộc địa… Như vậy, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự bắt đầu của một thời kỳ mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu nhường chỗ cho thời đại phi thực dân hóa”.
Tuy nhiên, thực dân Pháp đã nhanh chóng quay trở lại xâm lược Việt Nam. Nhưng chúng đã bị đánh bại bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” (7/5/1954). Về chiến thắng Điện Biên Phủ, nhà sử học Mỹ Berna Fol đánh giá: “Lần đầu tiên cường quốc thực dân bị một nước thuộc địa đánh bại”. Ký giả người Pháp Jules Roy ghi nhận: “Đó là một trong những thất bại lớn của phương Tây, báo hiệu sự tan rã của các thuộc địa”. Jean Pouget, một cựu sĩ quan trong lực lượng viễn chinh Pháp, cay đắng nhận xét: “Thất bại của Pháp tại Điện Biên Phủ đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ thực dân và khởi đầu cho kỷ nguyên độc lập của thế giới thứ ba”.
Đồng chí William Foster - Chủ tịch Đảng Cộng sản Mỹ, cũng đã viết trên Công nhân nhật báo (Mỹ) ra ngày 10/5/1954 như sau: “Thất bại này không những chỉ là thất bại thảm hại của riêng thực dân Pháp, một kẻ đã cố liều mạng để âm mưu xâm chiếm đất nước Đông Dương giàu đẹp mà trước hết là thất bại lớn lao của kế hoạch chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ”.
Năm 1955, chỉ 1 năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội nghị 29 nước Á - Phi đã họp ở Bandung (Indonesia). Lần đầu tiên trong lịch sử những dân tộc hàng trăm năm bị gạt ra ngoài rìa lịch sử đã liên kết lại để công khai lên án chủ nghĩa thực dân và hợp tác giúp đỡ nhau vì mục đích hòa bình, độc lập dân tộc. Tại hội nghị này, các đại biểu Việt Nam đã được chào đón như những người anh hùng.
Kết quả, chỉ 4 năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, năm 1960 đã đi vào lịch sử nhân loại với tên gọi “Năm Châu Phi” với 17 nước châu Phi đã tuyên bố độc lập. Đến 1968, có tới 39 nước ở châu lục này (gồm 85% lãnh thổ và 93% dân số) đã giành được thắng lợi trong cuộc chiến giành độc lập dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam - ngọn cờ cho cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới chống lại đế quốc thực dân. Ahmed Sékou Touré, Tổng thống nước Cộng hòa Guinea giai đoạn 1958-1984 đã nhận định: “Xuất sắc và dũng cảm, người anh Hồ Chí Minh là tấm gương tốt đẹp đối với các dân tộc Á - Phi trong cuộc đấu tranh cao cả chống đế quốc, chống thực dân cũ và mới”.
Thân thế và sự nghiệp của Người "đã vượt ra ngoài phạm vi biên giới của Tổ quốc mình”
Chủ tịch Hồ Chủ tịch đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới. Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, đọc tại Lễ truy điệu trọng thể Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 9/9/1969 có đoạn: “Hồ Chủ tịch đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới… Trái tim, khối óc của Người dành cho dân tộc Việt Nam ta cũng hướng về giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Là người học trò trung thành của Các Mác và Lênin, Hồ Chủ tịch chẳng những là một nhà yêu nước vĩ đại, mà còn là một chiến sĩ xuất sắc trong phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc của thế kỷ XX”. Do đó, Báo “Quyền lợi đỏ” của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Tiệp Khắc vào ngày 9/9/1969 đã có bài viết về bản Di chúc lịch sử của Người, trong đó nhấn mạnh: “Bác Hồ cùng với bản Di chúc của Người là thuộc về tất cả phong trào cộng sản, công nhân và cách mạng trên thế giới. Người được liệt vào những bậc mà thân thế và sự nghiệp đã vượt ra ngoài phạm vi biên giới của Tổ quốc mình”.
Phát biểu tại Thủ đô Hà Nội vào ngày 12/9/1973 trong chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên, Chủ tịch Cuba Fidel Castro nhấn mạnh: “Sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng xã hội là hai điểm then chốt trong học thuyết của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thấy rằng các dân tộc lạc hậu do sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân có thể có những bước nhảy vọt trong lịch sử và xây dựng nền kinh tế của mình theo con đường xã hội chủ nghĩa, không phải trải qua sự hy sinh và những nổi kinh hoàng của chủ nghĩa tư bản… Chúng tôi nghĩ rằng tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới sẽ tìm thấy trong cuộc đời đồng chí Hồ Chí Minh, trong tư tưởng chính trị của Người, trong quan điểm chiến thuật và chiến lược trong sáng của Người, một nguồn tri thức vô cùng phong phú để giải quyết những vấn đề của bản thân mình”.
"Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh"
Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới giai đoạn 1977-1995 Romet Chandra nhận định: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.
Tại Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1990, Tiến sĩ Modagat Ahmet - Giám đốc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) phụ trách khu vực văn hóa châu Á - Thái Bình Dương đã nhận định: “Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân loại bị đô hộ mà còn làmột nhà hiền triết hiện đại mang lại viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”.
Bởi vậy, TIME, một trong những tờ báo nổi tiếng, uy tín nhất nước Mỹ đã nhận định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật đã làm thay đổi dòng chảy lịch sử nhân loại, làm nên lịch sử hiện đại và là nhân vật vĩ đại nhất châu Á trong thế kỷ XX”.
Tính đến nay, đã có 35 tượng, tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng ở 20 nước thuộc châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi (Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines, Singapore, Sri Lanka, Lào, Thái Lan, Pháp, Nga, Hungary, Cuba, Venezuela, Argentina, Mexico, Chile, Panama, Dominica, Madagascar...). Có nhiều đường phố, đại lộ (riêng Pháp có 7 đường phố, Italy có 21 đường phố), 16 khu tưởng niệm và công viên, 6 bia tưởng niệm, 6 trường học mang tên Người ở nước ngoài.
Các thông tin, tài liệu trích dẫn:
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia.
Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Kỷ niệm thứ 100 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Tuyên huấn, Hà Nội.
Thế giới ca ngợi và thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
Thomas Hodgkin, “Thế giới bàn về Việt Nam”, tập 2, Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Nhiều tác giả, “Fidel Castro và Việt Nam: Những kỷ niệm không quên”, Nxb. Thế giới.
UNESCO và Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh (trích tham luận của đại biểu quốc tế), Nxb. Khoa học xã hội.