(Baonghean)- Tổng cục thuế đã chủ trì xúc tiến đàm phán các hiệp định tránh đánh thuế hai lần với các nước và vùng lãnh thổ nhằm tạo nền tảng pháp lý cơ bản về thuế đối với các hoạt động đầu tư và thương mại song phương.
Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Bùi Văn Nam cho biết, có thể coi đây là các bước tiến thiết yếu, tạo điều kiện thúc đẩy và phát triển quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
* Thưa đồng chí Bùi Văn Nam, ngành thuế đã đạt được những thỏa thuận song phương và đa phương nào để giúp hội nhập quốc tế sâu rộng?
* Tổng cục trưởng Bùi Văn Nam: Cũng ngay từ những năm 1990, với các bước cái cách hệ thống thuế giai đoạn 1, cùng với sự hợp tác của các tổ chức quốc tế và một số đối tác quan trọng (IMF, Thuỵ Điển..), hệ thống chính sách thuế và cơ chế quản lý thuế đã từng bước được hoàn thiện. Sự hoàn thiện này phù hợp với cơ chế kinh tế nhiều thành phần và từng bước mở cửa, bảo đảm vừa phù hợp với các nguyên tắc cơ bản trong thông lệ quốc tế, vừa phù hợp với các điều kiện và trình độ phát triển của Việt Nam, đồng thời đảm bảo yêu cầu thu ngân sách. Tính từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã ký kết 71 Hiệp định và kết thúc đàm phán 10 Hiệp định, đặt nền móng pháp lý quan trọng và góp phần thiết thực vào quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua cũng như trong tương lai.
Bên cạnh đó, trong quá trình quá trình hội nhập kinh tế đa phương của Việt Nam với khu vực (như ASEAN, ASEAN+, EU, APEC, EU… và WTO), đặc biệt là các bước đầu tiên khi gia nhập ASEAN và tham gia AFTA từ năm 1995 cho đến khi gia nhập WTO vào năm 2007, hệ thống thuế đã được rà soát và từng bước sửa đổi cho phù hợp với các cam kết hội nhập của Việt Nam. Điều này đặc biệt có ý nghĩa, nhất là đối với các điều khoản về đối xử quốc gia và các ưu đãi thuế có thể dẫn đến vi phạm các cam kết về trợ cấp đối với xuất khẩu hoặc ngành, lĩnh vực cụ thể. Vì vậy, đến năm 2005, các luật thuế đã được sửa đổi, loại bỏ các yếu tố còn chưa phù hợp với các nguyên tắc của WTO, hoàn thành một cách cơ bản và tương đối toàn diện hệ thống chính sách thuế phù hợp với các cam kết WTO của Việt Nam.
Cùng với quá trình hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, các phương thức quản lý hành chính thuế cũng được cải thiện. Chúng ta đã từng bước đưa tin học hoá vào áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực thực thi pháp luật thuế. Đồng thời, đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao đối với hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô của Bộ Tài chính nói riêng và của Chính phủ, Đảng và nhà nước nói chung.
Với các bước tiến theo hướng này, Luật quản lý thuế đã được ban hành năm 2006 và có hiệu lực từ 1/7/2007, đặt bước tiến quan trọng, đánh dấu bước ngoặt cải thiện về chất trong việc thực hiện Chiến lược cải cách, hiện đại hệ thống thuế giai đoạn 2. Cùng với việc đưa phương thức quản lý dựa trên cơ chế tự khai tự nộp của người nộp thuế, Luật quản lý thuế đã thể chế hoá một cách đồng bộ các khâu quản lý thuế theo hướng rõ ràng, minh bạch và ngày càng phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế; đáp ứng yêu cầu quản lý đối với số lượng người nộp thuế ngày càng tăng, đặc biệt là sự bùng nổ của số doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài sau khi Việt Nam hoàn thành các cam kết đối với khu vực mậu dịch tự do AFTA của ASEAN vào năm 2006 và gia nhập WTO vào năm 2007.
*Trong tiến trình đó, chúng ta sẽ còn phải đối mặt với những thách thức của hội nhập kinh tế đối với hệ thống thuế trong thời gian tới, phải không ạ?
* Tổng cục trưởng Bùi Văn Nam: Ngành thuế đang nỗ lực tập trung cải cách theo hướng ngày càng minh bạch và đơn giản hoá các TTHC thuế nhằm tạo thuận lợi cho các DN và người nộp thuế, phấn đấu đạt trình độ quản lý thuế của các nước tiên tiến trong khu vực ASEAN. Bên cạnh đó, việc mở rộng không ngừng mạng lưới các Hiệp định thuế, với số lượng trên 40 Hiệp định vào trước năm 2007, đến nay đã đạt số 81 Hiệp định đã hoặc đang chờ ký kết đặt ra thách thức lớn đối với ngành thuế trong việc nâng cao không ngừng chất lượng và hiệu quả quản lý thuế nói chung và quản lý thuế quốc tế nói riêng.
Rõ ràng, cùng với quá trình hội nhập kinh tế ngày càng càng sâu, rộng, các hoạt động doanh, đâù tư và thương mại giữa Việt Nam và các nền kinh tế ngày càng tăng cường về phạm vi và mức độ. Điều này tất yếu dẫn các hoạt động kinh tế xuyên biên giới ngày càng phức tạp, đa dạng và thường xuyên biến động. Đó chính là thách thức lớn đối với hệ thống thuế và quản lý thuế trong việc vừa bảo đảm tính đồng bộ, ổn định của chính sách,vừa bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của quản lý thuế; đặc biệt đối với các giao dịch qua biên giới, các đối tượng không cư trú và các công ty đa quốc gia.
*Chúng ta sẽ có những hệ thống giải pháp hữu hiệu nào, thưa đồng chí?
* Tổng cục trưởng Bùi Văn Nam:Trong lĩnh vực hội nhập quốc tế của ngành thuế, có một số yêu cầu được đặt ra, cần phải được giải quyết thì mới hoàn thiện được các công cụ chính sách và quản lý thuế phù hợp. Thứ nhất, cần đẩy mạnh nghiên cứu để từng bước chuẩn bị cho việc tăng cường hợp tác với các cơ quan thuế các nước để tiến tới tham gia Công ước về hỗ trợ hành chính lẫn nhau về vấn đề thuế. Thứ hai, cần từng bước thiết lập và hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu để nâng cao hiệu quả công tác trao đổi thông tin theo Hiệp định thuế, tiến tới nghiên cứu và tham gia các hiệp định trao đổi thông tin tự động.
Thứ ba, đó là việc củng cố và hoàn thiện các chính sách và biện pháp quản lý đối với các giao dịch liên kết qua biên giới, đối với các đối tượng không cư trú và các công ty đa quốc gia hoạt động toàn cầu. Rõ ràng, chúng ta cần xây dựng và tăng cường các biện pháp kiểm soát có hiệu quả các giao dịch lớn qua biên giới, nhằm chống trốn/tránh thuế. Ngoài ra, còn có những giải pháp khác như tiếp tục hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý giá chuyển nhượng, đồng thời tích cực chuẩn bị cho việc xúc tiến thực hiện các Thủ tục thoả thuận song phương theo cơ chế của Hiệp định thuế. Chủ động nghiên cứu và tích cực tham gia các diễn đàn thuế quốc tế, các hoạt động trao đổi chuyên môn nghiệp vụ quản lý thuế trong khu vực và thế giới.
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực có kiến thức và chuyên môn cao để có thể tham gia vào công tác nghiên cứu chính sách và quản lý thuế quốc tế cũng đòi hỏi được ưu tiên chú trọng. Điều này là tối cần thiết đối với ngành thuế cũng như các đơn vị liên quan trong Bộ nhằm đáp ứng với các thách thức ngày càng cao của các vấn đề thuế quốc tế và các giao dịch xuyên biên giới của các công ty đa quốc gia thường xuyên biến động do bối cảnh khách quan của môi trường kinh doanh cũng như chủ quan nhằm giảm thiểu các nghĩa vụ thuế, nhất là tại các quốc gia đang phát triển.
*Trân trọng cảm ơn đồng chí.
Sông Hồng (thực hiện)