Sáng nay, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã họp cho ý kiến về báo cáo kết quả giám sát bước đầu chuyên đề Hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển khoa học, công nghệ nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai đoạn 2005-2015 và định hướng phát triển giai đoạn tới, trong đó chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo.
Đánh giá việc thực hiện chiến lược phát triển KH-CN, báo cáo do Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Trưởng đoàn giám sát Phan Xuân Dũng trình bày cho biết,Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 272/2003/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển Khoa học và Công nghệ (KH-CN) Việt Nam đến năm 2010 (ngày 31/12/2003), Quyết định số 418/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển KH-CN giai đoạn 2011-2020 (ngày 11/4/2012).
Theo đó, qua 10 năm tổ chức triển khai thực hiện, một số chỉ tiêu quan trọng đề ra trong Chiến lược đã đạt được, như sau: Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đóng góp ngày càng nhiều vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) giai đoạn 2011-2013 với tỷ trọng đóng góp theo các năm lần lượt là 11,7%; 19,1% và 28,7%; tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị cơ bản đạt mục tiêu chiến lược đề ra, đạt 10,68%/năm.
Tổng số bài báo, công trình khoa học được công bố quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015 là 11.738, gấp 2,2 lần so với giai đoạn 2006-2010, tốc độ tăng bình quân là 19,5%/năm, đạt mức cao so với mục tiêu của Chiến lược.
Toán học, Vật lý và Hoá học tiếp tục là những lĩnh vực có thế mạnh của Việt Nam, chiếm 40% tổng công bố quốc tế trong 5 năm qua. Riêng Toán học, chúng ta có số lượng công bố quốc tế đứng đầu khu vực Đông Nam Á.
Tính tổng số công bố quốc tế trong giai đoạn 2011-2015, chúng ta xếp thứ 59 trên thế giới (so với thứ 66 trong giai đoạn 2006-2010 và thứ 73 giai đoạn 2001-2005) và thứ 4 của Đông Nam Á, sau Singapore (thứ 32 thế giới), Malaysia (thứ 38) và Thái Lan (thứ 43).
Đề cập đến số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ của Việt Nam, Trưởng đoàn giám sát cho biết, số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ giai đoạn 2011- 2015 tăng gấp 1,5 lần so với giai đoạn 2006-2010, giai đoạn 2016-2020 tăng 2 lần so với giai đoạn 2011-2015.
Giai đoạn 2011-2015, số lượng sáng chế, giải pháp hữu ích được bảo hộ tăng 62% so với giai đoạn 2006-2010. Cụ thể, số đơn đăng ký bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích giai đoạn 2011-2015 là 22.674 (giai đoạn 2006-2010 là 15.989); số văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích giai đoạn tương ứng là 6.391 và 3.940.
Theo báo cáo, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chưa đạt mục tiêu đề ra. Cụ thể, mục tiêu của Chiến lược: Số lượng cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D) đạt 9-10 người/vạn dân vào năm 2015 và 11-12 người/vạn dân vào năm 2020.
Trong khi đó, theo kết quả điều tra năm 2014, cả nước có 164.744 người tham gia hoạt động R&D (14 người/vạn dân), trong đó số cán bộ nghiên cứu có trình độ cao đẳng và đại học trở lên là 112.430 người.
Nếu quy đổi toàn thời gian (FTE), số lượng cán bộ R&D của Việt Nam chỉ đạt 7 người/vạn dân. Mặc dù nhân lực R&D của Việt Nam có tăng trong những năm qua, nhưng còn rất thấp so với các nước phát triển, cả về giá trị tuyệt đối và tỷ lệ trên dân số, chất lượng nguồn nhân lực cũng còn hạn chế.
"Một số chỉ tiêu chiến lược chưa đạt được và khó có thể đạt được do yêu cầu đặt ra quá cao so với thực trạng và năng lực của hệ thống tổ chức KH&CN trong nước, do hạn chế về đầu tư, tài chính và thiếu đồng bộ giữa các cơ chế, chính sách có liên quan", báo cáo nêu rõ.
Trước những con số được nêu ra trong báo cáo về bài báo, công trình khoa học được công bố quốc tế, bà Lê Thị Nga, Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội đặt vấn đề: “Gần đây dư luận xôn xao về đào tạo tiến sĩ. Vì liên quan đến ngân sách nên đề nghị cho biết đã dùng bao nhiêu tiền vào đây để có số bài báo, công trình được công bố quốc tế? Với Viện Hàn lâm thì trong thời gian giám sát công bố được bao nhiêu và chi bao nhiêu tiền?”
Giải đáp thắc mắc trên, Thứ trưởng Bộ KHCN Trần Quốc Khánh cho biết, thời gian vừa qua, số đăng ký công bố tăng và nguồn tăng đáng kể là qua sự hỗ trợ của Quỹ phát triển KHCN quốc gia, hàng năm tăng 30%.
Theo yêu cầu, tất cả bài báo công bố quốc tế này là đầu ra có 2 bài đăng trên tạp chí uy tín. Quỹ phát triển KHCN Quốc gia cơ bản phải hỗ trợ cho nghiên cứu cơ bản: toán, lý, hoá,...
“Cái này Việt Nam rất mạnh, công bố tăng lên rất nhiều. Hàng năm quỹ được cấp 300 tỷ đồng để hỗ trợ nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Trung bình một bài báo được công bố trên tạp chí quốc tế uy tín là 800 triệu đồng/bài. Còn của Viện Hàn lâm như thế nào sẽ có báo sau”, Thứ trưởng nói.
Theo Infonet.vn