(Baonghean) - Xuân đến, các thành viên trong CLB Chèo xã Lăng Thành (Yên Thành) lại nô nức vào hội. Những người quê hôm trước lam lũ đồng bãi hôm sau đã nhanh chóng vào các vai Thị Mầu, Tấm, Cám rất điêu luyện…
Xưa, Lăng Thành còn có tên gọi là Quỳ Lăng, vùng giàu có của Đông Yên Nhị huyện, nhiều trai làng của Diễn Kim, Diễn Bích đã rủ nhau lên Quỳ Lăng làm thuê cho con nhà giàu, họ mang theo tiếng hát chèo, sau đó xây dựng gia đình ở vùng đất này. Ông Đào Hưu là người đầu tiên gieo tiếng hát chèo của vùng đồng bằng Bắc bộ và làng chèo Quỳ Lăng được hình thành từ đó.
Ông Đậu Xuân Bách, gần 70 tuổi, một trong những hội viên lớn tuổi của CLB Chèo Lăng Thành nhớ lại: “Trong chiến tranh chống Mỹ, Lăng Thành là một trong những trạm giao liên, nơi nghỉ chân của các đoàn quân Nam tiến. Lúc đó tôi là đội trưởng đội văn nghệ, ngày đi làm, đêm ra sân đình biểu diễn các vở chèo cổ cho chiến sỹ xem. Để đảm bảo an toàn, nhiều hôm đội văn nghệ kéo nhau xuống hầm, chọn mô đất cao ráo rồi hát, rồi diễn say mê. Bên ánh đèn măng-sông mờ tỏ, những giọng hát lúc thiết tha, ai oán, lúc hài hước, vui nhộn cất lên say sưa, hồn nhiên”.
Thành lập từ năm 2007, CLB Chèo Lăng Thành hiện có trên 40 thành viên, với đầy đủ mọi lứa tuổi. Các thành viên trong CLB là những người có đam mê và một chút năng khiếu trời phú. Còn lại, hầu như những người con sinh ra trên đất chèo này, ai ai cũng biết hát một vài làn điệu, cũng đều mê đắm nghệ thuật chèo đến kỳ lạ. Mỗi lúc sắp đến hội diễn, họ sắp xếp công việc nhà cửa, í ới nhau ra sân đình hay nhà của hội viên nào đó múa, hát rộn ràng.
Chị Hoàng Thị Loan, 55 tuổi, ở xóm 7, Phó Chủ nhiệm CLB, người gặt hái được nhiều thành công trong các vai người mẹ. Ngoài năng khiếu hát chèo, chị còn độc tấu đàn bầu rất hay. Mỗi lần chị tham gia hội thi đều có người ở các đoàn chèo của tỉnh và Trung ương đến mời chị về đoàn, nhưng chị đều từ chối vì nhiều lý do. Thế nhưng trong thâm tâm, chị muốn khăn gói theo họ để được mở rộng tầm mắt, để được hát, múa cho thỏa niềm đam mê. Chị trở về với ruộng vườn, với nghề may vá, nhưng mỗi lần có hội diễn là tất bật gói gém áo quần để... đi hát, bất kể ngày mùa hay con nhỏ. Tan hội, chị lại trở về với lam lũ ruộng đồng, lại bồng bế con âu yếm hát ru. Hai cô con gái lớn của chị cũng nối nghiệp mẹ và trở thành những giọng hát nổi bật trong các đoàn chuyên nghiệp khiến chị ấm lòng. Chị không nhớ nổi mình đã đảm nhận bao nhiêu vai diễn, có lúc là cô Mầu đanh đá, lúc lại là cô Tấm ngoan hiền, hiếu thảo...
Nhưng với chị, nhân vật mẹ Hoàng Thị Loan trong vở “Dòng sông tình mẹ” để lại nhiều cảm xúc nhất. Vào vai này, chị không khỏi hồi hộp, lo lắng. Phải làm sao diễn tả được tình yêu thương bao la, đức hy sinh vô bờ của người mẹ đáng kính ấy? Thế nhưng, khi vào vai, chị lại cảm thấy như mình đang được trở về với chính mình, với tình yêu chồng, thương con, với những trở trăn rất đỗi bình dị của bất cứ người mẹ Việt Nam nào. Giờ đây, khi con cái trưởng thành, điều kiện kinh tế gia đình đỡ chật vật hơn, niềm tâm huyết của chị như được tiếp lửa. Không ít lần chị nuối tiếc khi để vuột mất cơ hội đến với nghệ thuật chuyên nghiệp, nhưng đổi lại, CLB Chèo Lăng Thành là nơi để chị sống hết mình vì đam mê và tìm thấy hạnh phúc giản dị ngay cạnh những láng giềng gần gũi, mộc mạc.
Cũng chính đất chèo Qùy Lăng này đã là cái nôi yêu thương của nghệ sỹ chèo Thanh Hoa nổi danh ở Nhà hát chèo Trung ương. Và có lẽ, không ít những người con đất chèo xưa nay tìm thấy được chính mình qua những làn điệu với nhiều cung bậc cảm xúc. Có người thành danh, nhưng cũng có người chẳng bao giờ dám đứng hát trước đám đông, nhưng với họ, những làn điệu ấy đã trở thành hơi thở, thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống đầy lo toan.
CLB Chèo Lăng Thành hiện có 4 cặp vợ chồng thường xuyên tham gia sinh hoạt. Họ bén duyên nhau nhờ những đêm hát chèo. Bà Nguyễn Thị Xuân ở xóm 3 nhớ lại: “Hồi nhỏ, tôi đi xem vở Phạm Công - Cúc Hoa, thấy thích quá nên tìm đến nhà hai anh em đóng Phạm Công và Cúc Hoa để làm quen và nhờ họ dạy hát. Sau, tôi được tuyển vào đội văn nghệ của xã, ông Bách là Đội trưởng và chúng tôi quen nhau từ đó. Thường xuyên luyện tập và biểu diễn cùng nhau, đảm nhận vai vợ chồng rồi cảm mến nhau”. Xấp xỉ tuổi 70 cả rồi, hai ông bà vẫn hai hộp “đồ nghề”, nào là khăn, áo, mũ, son phấn... sẵn sàng cho những hội diễn. Sau những giờ lăn lộn trên đồng ruộng, ông bà trở về nhà, cùng nhau ôn lại những kỷ niệm thời còn đi hát dưới đạn bom. Thỉnh thoảng, hai người lại sắm hai vai, diễn một mạch từ đầu đến cuối vở “Đường về trận địa”.
Gần 50 năm chung sống dưới một mái nhà, gánh nặng cơm áo, gạo tiền luôn thường trực trên vai, ông bà vẫn tạo điều kiện cho nhau để thỏa mãn niềm đam mê hát chèo. Mỗi lúc tiếng hát quen thuộc được cất lên là mọi người quây quần bên nhau để thưởng thức và cổ vũ. Các con của ông bà không ai theo nghệ thuật, nhưng ai cũng đam mê và có thể biểu diễn được một vài làn điệu. Ông bà luôn canh cánh nỗi lo làm thế nào để gieo tình yêu hát chèo cho thế hệ trẻ; ngày đêm miệt mài truyền lại các làn điệu chèo cho con, cháu trong làng, ngoài xóm với hy vọng chúng là những hạt nhân góp phần gìn giữ và lan truyền bộ môn nghệ thuật này…
Bài, ảnh: Nguyễn Lê