Trong những năm gần đây, lươn đồng là loài đặc sản nước có hiệu quả kinh tế vì dễ tiêu thụ, giá thành cao và kỹ thuật nuôi đơn giản, chi phí thấp nên được nhiều bà con nông dân đầu tư. Hiện tại có 2 phương thức nuôi phổ biến là nuôi trong bể và ao đất, tùy vào điều kiện cụ thể của gia đình.
 
1.Nuôi lươn đồng trong bể:
Bể xi măng, bể composit hay các bể được xây dựng trên cơ sở tận dụng các vật liệu rẻ tiền sẵn có như tre, ván ghép…thường được xây dựng theo hình chữ nhật, quy mô tùy theo khả năng tài chính của nông hộ, thường chiều dài  6 – 8 m, ngang 2,5 – 4 m và cao 1,6 – 2,2 m. Phía trên phần mặt bể có gờ nhỏ (10 cm) nhằm ngăn ngừa lươn thoát ra ngoài. Đối với bể xi măng mới xây, ngâm phèn chua 100 g/m2, ngâm 2 lần, 2 ngày/lần,  sau đó chà bằng bẹ chuối, phơi nắng 30 ngày, cấp và xả nước 3 – 4 lần. Xây dựng bể nuôi ở nơi có nguồn nước sạch, cung cấp nước thường xuyên, vị trí xây nơi yên tĩnh, chủ động việc cấp và thoát nước, thuận tiện giao thông. Tốt nhất là nơi có nguồn nước chảy tự nhiên như sông, suối, đảm bảo đạt  nhiệt độ của nước 25 – 27 0C,  hàm lượng oxy hòa tan 5mg/l, độ pH  6,5 – 8, độ mặn không quá 5‰. Ngoài bể nuôi nên có một bể chứa nước và lọc nước để thay lúc cần thiết. Cần đổ một lớp đất bùn pha sét mềm khoảng 20-30 cm để cho lươn chui rúc khi động, đất bùn pha sét được khử trùng bằng vôi và muối, liều lượng là 10kg đất trộn với 100-150gr muối và 50-100gr vôi bột.
Hình thức nuôi lươn đồng trong bể xi măng hay khung cây, ván ghép có ưu điểm là dễ quản lý, và rẻ tiền, phù hợp với hình thức nuôi hộ gia đình.

2. Nuôi trong ao đất lót bạt:
Tùy điều kiện của từng gia đình, diện tích tối thiểu phải được 20m2. Có dạng hình vuông hoặc hình chữ nhật. Chiều cao phải đạt từ 08 -1m, để giữ được mức nước 0,3 m. Thiết kế ống thóat nước ở đáy bạt, có đường kính khoảng 6 - 10cm. Dùng cọc tre cố định phía ngòai bạt nuôi để giữ bạt chắc chắn, đảm bảo cho quá trình nuôi. Đáy phủ  một lớp đất bùn pha sét hoặc thịt pha sét (đất ruộng đang canh tác), độn thêm rơm, cỏ, thân cây chuối mục hoặc dây nilon bó thành chùm, vùi vào lớp bùn đáy để tạo điều kiện thích hợp cho lươn trú ẩn. Lớp đất bùn này không nên lẫn cát hoặc những mảnh vụn bén nhọn. Lớp đất này chiếm từ 1/3 - 1/2 diện tích ao, bề cao lớp đất từ 0,3 - 0,4m. Thả một ít lục bình hoặc có giàn lưới ½ diện tích mặt ao để che mát, giảm bớt nhiệt độ nước ao và hạn chế lá cây rụng. Xung quanh ao làm đăng lưới hay bao vách nylon ngăn ngừa địch hại xâm nhập và phòng lươn thoát ra môi trường bên ngoài. Sau khi xây bạt xong tiến hành rửa bạt sạch bể nuôi  và cấp nứớc cho ao đạt 0,2 – 0,3 m. Kiểm tra các yếu tố môi trường cho phù hợp với sự phát triển của lươn rồi tiến hành thả giống.

3. Con giống:

Chọn giống kích cỡ đồng đều, màu sắc tươi sáng (lưng có màu vàng sẫm, có chấm đen), linh hoạt, không xây xát, thương tổn, mất nhớt. Chất lượng con giống phải thật tốt. Kích cỡ giống dao động từ 20 – 30 con/kg. Mật độ thả nuôi dao động từ 50 – 80 con/m3. Trước khi thả cá, nên tiến hành sát trùng cho cá bằng dung dịch muối có nồng độ 2 - 3% trong thời gian 5-10 phút, thuốc tím 10 - 20g/m3 15 - 30 phút để loại trừ kí sinh và sát trùng vết thương do xay xát trong quá trình đánh bắt và vận chuyển. Giống nuôi chủ yếu được khai thác từ nguồn giống tự nhiên nên cần có bể để thuần dưỡng, phân cỡ và phòng trị bệnh trước khi đưa vào nuôi thương phẩm. Bể thuần dưỡng để nơi thoáng mát và yên tĩnh, tránh ánh nắng trực tiếp. Trong 1 - 2 ngày đầu, không cho lươn ăn tạo điều kiện thích nghi với môi trường nuôi nhốt. Mật độ thuần dưỡng 2 - 4 kg/m2. Thay nước 1 - 2 lần/ngày. Thời gian thuần dưỡng là 5 – 7 ngày.

4. Chăm sóc cho ăn và quản lý:

Thức  ăn: Chủ yếu là cá tạp, cá biển, trùn, ốc, nhái cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin thích hợp. Nếu thức ăn là cá tạp, trước khi cho ăn nên sát trùng bằng muối ăn  0,5 kg muối/ 3lít nước trong thời gian 30 phút, cá tạp tươi rửa sạch, bỏ hết nội tạng, cắt nhỏ. Để tăng cường sức khỏe cho ăn cá băm nhỏ hợp cỡ mồi theo kích cỡ lươn nuôi hoặc thức ăn tự chế biến hấp, để nguội, phối hợp trộn với 3g men tiêu hoá/1kg thức ăn +vitamin C + dầu mực để kích thích lươn bắt mồi.
Cho lươn ăn ngày 2 lần vào lúc sáng sớm (6-7h) và chiều tối (18-19h), chủ yếu vào ban đêm, lượng thức ăn mỗi ngày bằng 5-7% tổng trọng lượng đàn cá. Sau khi cho ăn khoảng 3 đến 4 giờ, kiểm tra lại sàng ăn để xem khả năng lươn ăn mồi, qua đó điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp ở lần kế tiếp.
Dụng cụ cho ăn là sàng tre đan thưa (kích thước 0,8m x 1m), nhẵn hoặc bằng sàng lưới cước được đặt cách mặt nước 10 - 20cm. Cho hoàn toàn thức ăn vào sàng ăn, mật độ sàn 70-100 m2 /sàng. Định kỳ 2 - 3 ngày thay nước một lần để tạo môi trường trong sạch cho lươn phát triển. Nên sử dụng nguồn nước qua ao lắng có xử lý vôi bột để hạn chế được dịch bệnh. Khi nuôi cần chú ý đến khả năng cung cấp nguồn nước, chất lượng nước và các yếu tố môi trường khác như hàm lượng oxy hòa tan, nhiệt độ nước, pH... để có biện pháp kỹ thuật xử lý thích hợp. Vệ sinh bể khoảng định kỳ 5 - 7 ngày phải cọ sạch bể. Mỗi ngày gom chất thải, thức ăn thừa lắng ở đáy lại và xả ra ngoài.

Mỗi tháng phân cỡ một lần, tách con lớn, con nhỏ  nuôi riêng để lươn đồng đều và chóng lớn; đồng thời thay lớp đất bùn và rơm, cỏ, thân chuối mục khác để tạo môi trường tốt cho lươn sinh trưởng. Trước khi phân cỡ để lươn nhịn từ 1 ngày, để lươn bài tiết hết thức ăn trong bụng, dùng sàng nhẵn để phân loại cỡ lươn, dùng vợt không dùng tay bắt.  
Việc phòng bệnh cho lươn rất quan trọng, định kỳ 10-15 ngày dùng vôi bột với liều lượng 10-20 g/m3 hoà nước tạt để ngừa bệnh cho lươn. Thả nuôi mật độ vừa phải, tránh để ao, bể bị ô nhiễm. Cho ăn đầy đủ về số lượng và chất lượng. Thường xuyên bổ sung vitamine C để tăng sức đề kháng cho lươn và định kỳ trộn tỏi vào thức ăn với liều lượng 4-5g/kg thức ăn để phòng bệnh đường ruột. Theo dõi các hoạt động của lươn, kịp thời phát hiện lươn bị bệnh cách ly để điều trị.

5. Thu hoạch: Sau từ 3 – 4 tháng nuôi, lươn đạt kích cỡ thương phẩm, ta tiến hành thu hoạch. Trước khi thu cho lươn nhịn ăn một ngày. Thu tỉa thì dùng lọp, thả mồi bắt. Thu cuối vụ thì tát cạn, Lươn thu được nhốt trong bể nước sạch có sục khí, hoặc giai để cho lươn khỏe, chịu đựng được mật độ cao thuận tiện cho việc vận chuyển sống đến thị trường tiêu thụ.

Theo Intenet - LY
;
Các tin khác
.
.