Theo đặt hàng của Bộ Quốc phòng Liên Xô vào thập niên 1980, 2 máy bay vận tải hạng nặng Il-76MD đã được tiến hành một số sửa đổi để đảm nhiệm vai trò trạm chỉ huy lực lượng hạt nhân trên không trong trường hợp các cơ sở mặt đất bị gián đoạn hoặc mất liên lạc.
Với chức năng như trên, chiếc Il-76VKP có vai trò tương tự như "Máy bay ngày tận thế" E-4B của Không lực Hoa Kỳ. IL-76VKP có một số nhiệm vụ tương tự với máy bay chỉ huy cảnh báo sớm trên không A-50 nhưng nó dùng cho trường hợp hẹp hơn.
Công việc được tiến hành với chiếc Il-76MD mang số hiệu CCCP-76.450 vào ngày 22 tháng 9 năm 1987, trong khi chiếc Il-76MD thứ hai có số khung CCCP-76.451 diễn ra ngày 30 tháng 11 cùng năm. Chúng vẫn được lưu giữ tới năm 1999 nhưng tình trạng hiện tại là chưa rõ ràng.
Đặc điểm dễ nhận thấy nhất của Il-76VKP đó là sự xuất hiện của một "cái bướu" lớn ngay trên nóc cabin chỉ huy, đây là không gian để chứa thiết bị liên lạc với vệ tinh đi kèm đường thông tin quang truyền hình có độ bảo mật cao.
Máy bay sẽ thực hiện vai trò kết nối với các cơ sở phóng tên lửa hạt nhân trên mặt đất, với sở chỉ huy của các đơn vị không quân chiến lược, ngoài ra nó còn một kênh liên lạc tần số cực thấp để kết nối với tàu ngầm hạt nhân đang hoạt động ngoài khơi.
Hai chiếc phi cơ đặc biệt trên ra đời khi Liên bang Xô Viết bắt đầu bước vào giai đoạn suy thoái, do vậy chưa rõ tình trạng hoàn thiện của chúng ra sao cũng như độ tin cậy của các thiết bị đặc biệt được "cấy ghép".
Theo một số báo cáo, cả hai chiếc máy bay Il-76VKP trên đều được biên chế cho một phi đội tác chiến đặc biệt đóng tại sân bay Chkalovsky, mọi thông tin liên quan đến chúng đều được bảo mật rất kỹ. Đây là một mẫu phi cơ hiếm hoi vẫn chưa được phân loại rõ ràng.
Thông số kỹ thuật cơ bản của "Trung tâm chỉ huy hạt nhân trên không" Il-76VKP bao gồm chiều dài 46,59 m; sải cánh 50,5 m; chiều cao 14,76 m; diện tích cánh 300 m2; trọng lượng rỗng và trọng lượng cất cánh tối đa của máy bay chưa được công bố.
Máy bay được trang bị 4 động cơ turbine phản lực Soloviev D-30KP có lực đẩy 12.000 kgf, cho tốc độ tối đa 780 km/h, tầm hoạt động 6.800 km với trần bay 12.000 m, kíp điều khiển gồm 5 người (chưa kể các nhân viên kỹ thuật đảm bảo liên lạc trên không).