(Baonghean) - Theo thông tin chị N.T. H cung cấp: Chị kết hôn với anh C vào năm 2008, hiện đã có một con trai 4 tuổi và đang mang thai đứa con thứ hai được 6 tháng. Vào tháng 12/2014 chồng chị chẳng may bị tai nạn qua đời. Tài sản mà vợ chồng chị có là một ngôi nhà tọa lạc trên thửa đất có diện tích 900 m2. Sau khi chồng mất, giữa chị và bố mẹ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Bố mẹ chồng yêu cầu chị phải chia 1/2 thửa đất mà mẹ con chị đang sống cho họ vì họ cho rằng, đó là công sức của con trai họ. Giờ con trai mất, bố mẹ có quyền hưởng di sản thừa kế.
 
Hỏi:
 
Yêu cầu của bố mẹ chồng chị có đúng không? Pháp luật quy định về chia thừa kế trong trường hợp này như thế nào?
 
Trả lời:
 
Điều 33, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:
 
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại Khoản 1, Điều 40 của luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng, cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
 
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
 
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
 
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.
 
Theo như thông tin chị cung cấp, ngôi nhà tọa lạc trên thửa đất có diện tích 900 m2 mà mẹ con chị đang sinh sống là tài sản có được sau khi kết hôn. Do đó, đây là tài sản chung của vợ chồng chị. Khi chồng chị mất, 1/2 giá trị tài sản này là của chị. 1/2 giá trị tài sản còn lại sẽ được chia thừa kế theo pháp luật như sau:
 
Điều 676, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về hàng thừa kế như sau: 
 
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
 
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
 
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
 
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
 
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”
 
Đối với trường hợp của gia đình chị, những người được hưởng thừa kế bao gồm: chị, các con của chị và bố mẹ chồng. Do chị đang mang thai tháng thứ 6 nên việc chia thừa kế sẽ được áp dụng Điều 635, Bộ luật dân sự để giải quyết. Điều 635, Bộ luật dân sự quy định: 
 
“Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”. 
 
Như vậy, di sản thừa kế do chồng chị để lại sẽ được chia đều 5 phần, bao gồm cả đứa con chị đang mang thai nếu con sinh ra còn sống. Trường hợp em bé sinh ra và mất ngay sau khi vừa ra đời thì em bé không được hưởng thừa kế. Phần thừa kế này sẽ được chia đều cho 4 người còn lại.
 
Văn phòng luật sư 
Trọng Hải & Cộng sự