062428-1.jpgBộ Tài chính đề xuất sửa đổi về giá tính LPTB đối với ô tô, xe máy theo hướng làm rõ, thống nhất thực hiện.

Nghị định số 140/2016/NĐ-CP quy định trường hợp ô tô, xe máy có giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường tăng hoặc giảm 20% trở lên so với giá tính LPTB tại Bảng giá do Bộ Tài chính ban hành thì Bộ Tài chính điều chỉnh giá tính LPTB đối với tài sản đó. Trong thời gian qua, thực hiện các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế nhập khẩu, giá chuyển nhượng trên thị trường của nhiều dòng xe có xu hướng giảm, nhưng mức giảm chưa đến 20% nên chưa đủ điều kiện để điều chỉnh giá tính LPTB đối với các dòng xe này.

Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) đề nghị nghiên cứu điều chỉnh mức biến động để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. Ngoài ra, cần quy định thời gian Bộ Tài chính ban hành Bảng giá tính LPTB bổ sung, điều chỉnh để đảm bảo tính ổn định.

Nghị định số 140/2016/NĐ-CP quy định về giá tính LPTB đối với ô tô, xe máy còn dẫn đến cách hiểu khác trong thực hiện.

Về miễn LPTB, thực tế thực hiện cho thấy, một số trường hợp (như tài sản đăng ký lại khi cổ phần hóa từ đơn vị sự nghiệp công lập thành sở hữu của công ty cổ phần; tài sản đăng ký lại do chuyển mục đích sử dụng đất nhưng không thay đổi người có quyền sử dụng đất và không thuộc đối tượng nộp tiền sử dụng đất; vỏ, tổng thành khung, tổng thành máy của tàu, thuyền đánh bắt thủy, hải sản được thay thế mà phải đăng ký; xe hút chất thải, xe cứu hộ; nhà, đất tái định cư...) cần đưa vào đối tượng miễn LPTB hoặc cần quy định rõ hơn nhằm đảm bảo tính khả thi trong thực hiện, đảm bảo đồng bộ trong chính sách ưu đãi của Nhà nước.

Do vậy, để khắc phục những bất cập, tồn tại trong chính sách thu LPTB hiện hành; đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong chính sách thu LPTB và giữa chính sách thu LPTB với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; cũng như đảm bảo chính sách công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp thì việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 140/2016/NĐ-CP là cần thiết.

Các nội dung sửa đổi

Thực hiện quy định về giá tính LPTB đối với ô tô, xe máy còn có cách hiểu khác. Để thống nhất cách hiểu, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi về giá tính LPTB đối với ô tô, xe máy tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 140/2016/NĐ-CP theo hướng làm rõ như sau: Giá tính LPTB đối với ô tô, xe máy là giá tại Bảng giá tính LPTB do Bộ Tài chính ban hành (kể cả trường hợp giá tính LPTB đối với ô tô, xe máy biến động vượt mức biến động phải điều chỉnh Bảng giá tính LPTB mà Bộ Tài chính chưa kịp điều chỉnh lại Bảng giá thì vẫn áp dụng Bảng giá để tính LPTB). Cụ thể như sau:

“b) Giá tính lệ phí trước bạ đối với tài sản là ô tô, xe máy quy định tại khoản 6, khoản 7 Điều 2 Nghị định này và vỏ, tổng thành khung, tổng thành máy của ô tô, xe máy quy định tại khoản 6, khoản 7 Điều 2 Nghị định này là giá tại Bảng giá tính lệ phí trước bạ do Bộ Tài chính ban hành theo nguyên tắc giá tính lệ phí trước bạ là giá chuyển nhượng tài sản trên thị trường tại thời điểm xây dựng Bảng giá được xác định theo quy định tại điểm a Khoản này”.

b) Về giá tính LPTB đối với tài sản phát sinh chưa có trong Bảng giá tính LPTB và mức biến động giá chuyển nhượng ô tô, xe máy để điều chỉnh Bảng giá tính LPTB

b.1) Về giá tính LPTB đối với tài sản phát sinh chưa có trong Bảng giá tính LPTB

Tại điểm b khoản 2 Nghị định số 140/2016/NĐ-CP (được kế thừa tại dự thảo Nghị định) quy định: Trường hợp ô tô, xe máy chưa có trong Bảng giá tính LPTB thì giá tính LPTB là giá chuyển nhượng tài sản trên thị trường (giá trên hóa đơn bán hàng hợp pháp đối với tài sản mua bán; hoặc trị giá tính thuế nhập khẩu theo quy định của pháp luật về hải quan, cộng (+) thuế nhập khẩu, cộng (+) thuế tiêu thụ đặc biệt, cộng (+) thuế giá trị giá tăng (nếu có) đối với tài sản nhập khẩu) (theo quy định tại điểm a khoản này).

Để đảm bảo kịp thời hơn nữa trong xác định giá tính LPTB đối với ô tô, xe máy phát sinh chưa có trong Bảng giá tính LPTB, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về giá tính LPTB đối với ô tô, xe máy phát sinh chưa có trong Bảng giá tính LPTB tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 140/2016/NĐ-CP như sau: “Trường hợp phát sinh loại tài sản mà tại thời điểm nộp tờ khai lệ phí trước bạ chưa có trong Bảng giá tính lệ phí trước bạ do Bộ Tài chính ban hành thì Cục trưởng Cục thuế quyết định giá tính lệ phí trước bạ theo nguyên tắc giá tính lệ phí trước bạ tối thiểu là giá chuyển nhượng tài sản trên thị trường theo quy định tại điểm a khoản này để làm căn cứ tính lệ phí trước bạ”.