Phương châm là triệt để khai thác vùng ven khe suối, thấp thì cấy lúa nước, cao hơn thì trồng ngô, hoa màu. Ở những địa phương buộc phải trồng lúa nương (rẫy) thì chủ yếu sản xuât giống nếp cẩm hoặc gạo đặc sản. Thông qua trao đổi để từ 1 kg nếp cẩm, 1 kg gạo đặc sản có thể mua được 2 kg gạo bình thường. Đây cũng là cách để tăng sản lượng lương thực.
Để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho mấy hướng đi nêu trên, cần tập trung vào 2 yếu tố sau: Từng bước nâng cao trình độ thâm canh, tiếp nhận các tiến bộ về khoa học công nghệ cho người dân thông qua các hoạt động khuyến nông, đào tạo nghề nông với các cách thức phù hợp. Và tổ chức sản xuất theo hướng liên kết hộ, liên kết hộ, liên kết sản xuất với chế biến và tiêu thụ tạo chuỗi sản phẩm và tạo thị trường (đầu ra).
Những đề xuất trên không mới, vấn đề là ở tổ chức chỉ đạo của xã, của huyện. Lâu nay, việc tổ chức chỉ đạo còn chung chung, không thật sát và phù hợp với từng bản, từng xã. Huyện chưa đóng vai trò tổ chức liên kết, tổ chức thị trường. Từ xã đến huyện phải có tư duy mới về tổ chức và quản lý kinh tế theo hướng từng bước đưa sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hóa. Thực hiện có hiệu quả giải pháp đầu tiên nói trên là tiền đề, điều kiện để thực hiện giải pháp tiếp theo.
Để phát triển kinh tế rừng, cần tổ chức làm kinh tế ngay trong rừng phòng hộ, rừng đặc dụng với diện tích nhất định nào đó, ở địa điểm cụ thể nào đó. Không nên giữ quan niệm hiện nay là rừng phòng hộ, rừng đặc dụng chỉ có bảo vệ. Làm kinh tế ở đây có thể là: trồng dược liệu quý dưới tán rừng, đặc biệt là sâm Pu xai lai leng theo cách mà Kon Tum và Nam Trà My (Quảng Nam) đã làm: trồng các giống hoa phong lan, nuôi ong, kinh doanh dịch vụ du lịch gồm du lịch sinh thái, du lịch khám phá, du lịch mạo hiểm... Bài học từ Kon Tum và Nam Trà My cho ta kết luận rằng: Càng khai thác, tận dụng được lợi ích kinh tế bao nhiêu càng bảo vệ bền vững rừng phòng hộ, rừng đặc dụng bấy nhiêu.
Cách làm như sau: Trên diện tích trồng thuần cây nguyên liệu ngắn ngày khi cây chưa khép tán có thể trồng các cây hàng năm như đậu, lạc, vừng, cây thuốc như gừng, nghệ... như vậy để lấy ngắn nuôi ngắn. Trồng xen cây gỗ lớn với các cây giống bản địa với tỷ lệ 20% diện tích. Sau chu kỳ khai thác cây nguyên liệu (5-7-10 năm) lại trồng xen tiếp thêm 20% diện tích cây gỗ lớn nữa... cứ thế sau 5 chu kỳ cây nguyên liệu chúng ta sẽ có 100% cây gỗ lớn. Cách thức trồng xen này chính là lấy ngắn nuôi dài.
Dưới tán rừng cây nguyên liệu xen cây gỗ lớn còn có thể trồng cây dược liệu, khoanh vùng nuôi gà, nuôi một số con đặc sản. Làm như vậy đồng nghĩa với chuyển đổi kinh doanh rừng đơn cây (thuần cây nguyên liệu) sang kinh doanh rừng tổng hợp (đa cây, đa con, đa sản phẩm). Từ đó nâng cao nhiều lần thu nhập trên đơn vị một ha rừng. Cũng đồng nghĩa với việc ta sẽ có rừng giàu để làm giàu cho miền Tây.
Để phát triển kinh tế rừng miền Tây, UBND tỉnh cần có chủ trương quy hoạch phát triển rừng lồng ghép với chủ trương quy hoạch phát triển cây dược liệu; chủ trương quy hoạch khai thác kinh tế trên một số diện tích rừng đặc dụng và rừng phòng hộ; chủ trương trồng rừng hỗn giao dần thay cho trồng rừng thuần cây nguyên liệu hiện nay.
UBND các huyện cần căn cứ vào các chủ trương của tỉnh, sử dụng hiệu quả các chính sách của tỉnh, với sự hỗ trợ của các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm xây dựng kế hoạch chỉ đạo cụ thể cho từng việc, từng khâu, từng bước đến tận từng nhà, từng bản, từng xã để thực hiện có hiệu quả việc làm kinh tế rừng ở huyện mình.