(Baonghean) - Qua 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 01 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện và đề án số 745/ĐA của UBND huyện về đào tạo nghề, giải quyết việc làm giai đoạn 2011 - 2013, gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới, trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu đã có hơn 15 nghìn lao động được đào tạo nghề, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 32,7% lên 46,9%...
Nghị quyết sát thực tiễn
Là một xã thuần nông, trong quá trình xây dựng nông thôn mới, cấp ủy, chính quyền xã Quỳnh Diễn luôn chú trọng công tác đào tạo nghề gắn với nhu cầu thực tiễn vừa khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Từ kết quả phát triển làng nghề truyền thống mây tre đan Đồng Văn ở xóm 1 giải quyết việc làm thường xuyên cho hơn 200 lao động với mức thu nhập bình quân 1,7 - 1,8 triệu đồng/tháng, Đảng bộ xã đã ban hành Nghị quyết 26 xây dựng làng nghề tại xóm 2 và xóm 4 thu hút khoảng 300 lao động tham gia.
Ông Lê Văn Long - Phó Chủ tịch UBND xã Quỳnh Diễn cho biết: Hàng năm xã đều nắm bắt thông tin thị trường, xây dựng kế hoạch đào tạo nghề tại chỗ, nâng cao tay nghề cho lao động theo hướng mây tre đan xuất khẩu với những sản phẩm mới. UBND xã còn liên doanh với Công ty Đức Phong để cung ứng nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm cho bà con nông dân. Bên cạnh đó còn đầu tư xây dựng nhà xưởng, kho, nhà làm việc cho làng nghề, làng có nghề dự trữ nguyên vật liệu để sản xuất và tổ chức các lớp học nghề. Nhờ vậy, giải quyết việc làm lúc nông nhàn, tăng thu nhập cho hộ gia đình. Chị Lê Thị Lưu ở xóm 1, cho biết: Nhờ đầu ra sản phẩm được đảm bảo nên từ mồng 2, mồng 3 Tết, nhiều gia đình đã tranh thủ làm. Riêng gia đình chị Lưu, nghề mây tre cũng có thêm thu nhập mỗi tháng khoảng 2 triệu đồng để cải thiện cuộc sống…
Để tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho lao động trẻ, xã còn phát triển nghề mộc mỹ nghệ với 9 cơ sở sản xuất, góp phần đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động. Bên cạnh đó, các đoàn thể chính trị như hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội nông dân… thường xuyên mở các lớp đào tạo nghề, tập huấn ngắn hạn về trồng trọt, chăn nuôi nhằm khai thác có hiệu quả diện tích tự nhiên 615 ha, đẩy mạnh phát triển các mô hình gia trại kết hợp chăn nuôi và trồng trọt.
Không chỉ Quỳnh Diễn mà theo chủ trương của huyện, nhiều xã khác, các mô hình đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn với xây dựng nông thôn mới, phù hợp với tiềm năng thế mạnh của địa phương cũng như định hướng phát triển kinh tế vùng cũng được nhân rộng. Theo đó, ở khu vực nông giang, khu vực miền núi tập trung đào tạo nghề trồng trọt, chăn nuôi như: nuôi vịt sinh học tại xã Quỳnh Hưng; gà thả đồi ở Tân Thắng, Quỳnh Thắng; trồng rau sạch ở xã Quỳnh Lương, Quỳnh Minh; nghề sửa chữa máy nông nghiệp, chăn nuôi thú y ở Quỳnh Tân, Quỳnh Tam; phát triển làng nghề mây tre đan ở Quỳnh Thanh, Quỳnh Thạch; mộc mỹ nghệ ở Quỳnh Hưng, Quỳnh Bá; nghề sửa chữa điện dân dụng ở Quỳnh Hậu.
Ở các xã vùng ven biển như Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Long, Tiến Thủy tập trung đào tạo các nghề thuyền trưởng máy trưởng, nghề nuôi trồng, chế biến thủy sản, đóng mới, sửa chữa tàu thuyền, chế biến món ăn phục vụ du lịch. Khu vực thị trấn tập trung vào các nghề sửa chữa cơ khí, điện lạnh, điện dân dụng, dịch vụ, du lịch, may thời trang... Từ đây, nhiều lao động trên địa bàn đã được học nghề và có việc làm. Ngoài ra, một số cơ sở sản xuất đồ mộc, đóng mới sửa chữa tàu thuyền, sửa chữa cơ khí, ô tô xe máy trên địa bàn còn đào tạo nghề theo hình thức kèm cặp và giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động tại chỗ. Điển hình như xưởng mộc mỹ nghệ của Cựu chiến binh Nguyễn Văn Quang ở xóm 4 Quyết Tiến, xã Quỳnh Bá đã phối hợp với Trường Tiểu thủ công nghiệp tỉnh mở 3 lớp đào tạo nghề cho gần 100 học viên. Xưởng mộc của ông Quang hiện tạo công ăn việc làm thường xuyên cho từ 30-50 lao động, thu nhập từ 5-7 triệu đồng/tháng, mỗi năm doanh thu trên 3 tỷ đồng.
Để giải quyết bài toán dạy nghề gắn với tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, thời gian qua, huyện Quỳnh Lưu còn quan tâm xây dựng và phát triển thêm nhiều làng nghề thông qua đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng nông thôn, hỗ trợ kinh phí phục vụ đào tạo nghề, truyền nghề cho người lao động. Nhờ vậy, mà hầu hết các làng nghề đều phát huy được hiệu quả, giá trị sản xuất từ các làng nghề của huyện mỗi năm ước đạt trên 200 tỷ đồng, góp phần tạo việc làm cho gần 10.000 lao động địa phương, với mức lương từ 2 đến 2,5 triệu đồng/người/tháng. Tính đến nay, trên địa bàn huyện đã có 26 làng nghề được UBND tỉnh công nhận và 6 làng nghề cấp huyện. Ngoài việc triển khai thực hiện đào tạo tại chỗ thì huyện cũng đã có kế hoạch tổ chức cho lao động được tiếp cận và học tập tại các trường nghề trên địa bàn của tỉnh, của huyện; phối hợp với các trường dạy nghề, các công ty lớn như Công ty TNHH Canon Việt Nam, Công ty NiSSxay tổ chức tư vấn học nghề tại các cụm xã, thị trấn; tạo điều kiện để lao động sau đào tạo nghề tiếp cận với các nguồn vốn vay để phát triển kinh tế, lập thân lập nghiệp ngay trên chính mảnh đất quê hương.
Đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm
Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết 01 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa 26, tổng số lao động được đào tạo trên địa bàn huyện là 15.754 người, trong đó có khoảng 11.000 người được đào tạo về lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, chiếm 69,8%; khoảng 4.700 lao động được đào tạo thuộc lĩnh vực nông lâm ngư, chiếm 30,2%. Nhờ tập trung phối hợp làm tốt công tác tuyên truyền, tư vấn học nghề, đào tạo nghề gắn với giới thiệu và giải quyết việc làm, trong hơn 3 năm qua trên địa bàn huyện đã có khoảng 7.000 đến 7.200 lao động được giải quyết việc làm mới; trong đó xuất khẩu lao động 1.855 người, mỗi năm tăng trên 270 lao động so với năm 2010, đạt 130 -142% so với kế hoạch tỉnh giao là 650-700 người/năm) và đạt 92-95% so với chỉ tiêu nghị quyết. Riêng năm 2013 đã giải quyết việc làm cho gần 2.400 lao động.
Trao đổi với chúng tôi, lãnh đạo huyện Quỳnh Lưu cho biết: Nghị quyết 01 của BCH Đảng bộ huyện khóa 26 được cụ thể hóa bằng Đề án 745 của UBND huyện đã được chỉ đạo triển khai tương đối đồng bộ với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Nhờ đó từng bước góp phần nâng cao chất lượng lao động, tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, thúc đẩy kinh tế vùng, góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo của huyện từ 15,4% cuối năm 2010 xuống còn 7,1% cuối năm 2013. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng thêm khoảng 5,2%, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề toàn huyện từ 32,7% năm 2010 lên khoảng 46,9% hiện nay (chỉ tiêu NQ đến năm 2015 tỷ lệ khoảng 40-42%). Nhận thức của nhân dân đã có những chuyển biến tích cực, số lao động nông thôn đăng ký học nghề ngày càng tăng; số học sinh sau khi hoàn thành chương trình THPT và THCS tham gia học nghề năm sau cao hơn năm trước.
Tuy nhiên, theo ông Kiều Ngọc Thanh - Phó Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Quỳnh Lưu thì với đặc thù dân số đông (khoảng 264.300 người) thì hiện tại số lao động được đào tạo nghề hàng năm còn thấp so với lực lượng lao động cần đào tạo trên địa bàn. Cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn huyện chưa đáp ứng nhu cầu đào tạo nghề ở trình độ cao, nhất là những ngành nghề mũi nhọn để cung cấp cho thị trường cần lao động có chất lượng và một số nghề mới được du nhập vào địa bàn huyện, từ đó ảnh hưởng đến kết quả đào tạo nghề và giải quyết việc làm. Mặt khác, công tác đào tạo nghề theo định hướng vùng có chuyển biến nhưng vẫn còn những hạn chế như chưa vận động được lao động học nghề chế biến và bảo quản thủy sản; sản xuất, chế biến và bảo quản rau sạch phục vụ các thị trường, dịch vụ du lịch và phục vụ nhà hàng, khách sạn; giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động còn hạn chế.
Để đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo toàn huyện lên khoảng 49%, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 5,5%, huyện Quỳnh Lưu chú trọng nâng cao chất lượng hướng nghiệp cho học sinh sau khi tốt nghiệp bậc học THPT và THCS; thực hiện có hiệu quả phân luồng đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề; tăng cường chỉ đạo các xã, thị trấn tiếp tục thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ; nghị quyết và đề án của huyện về đào tạo nghề cho lao động nông thôn; trong đó quan tâm đến các xã 3 năm qua chưa tổ chức lớp dạy nghề như Quỳnh Hồng, Sơn Hải, Tân Thắng, Tân Sơn; lựa chọn đào tạo các nghề, nhóm nghề phù hợp với tình hình của huyện; chú ý nguồn lao động phục vụ các làng nghề, làng có nghề; chú ý chuyển giao KHKT, công nghệ, lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi, các dự án phát triển kinh tế theo vùng miền…
Bài, ảnh: Khánh Ly