Phó Đức Thành, quê quán tại thôn Đa Ngưu, xã Tân Tiến, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, sinh năm 1880 tại Ninh Bình.
Năm 1926, khi đang làm ăn yên ổn ở Huế với tư cách là một công chức lục lộ và chủ một cơ sở kinh doanh nhỏ, Phó Đức Thành liên tiếp nhận được lời mời giúp đỡ của một người anh họ là Phó Đức Chu. Ông Chu mở cửa hiệu buôn bán thuốc Bắc ở Hà Nội, nhưng bị người Hoa chèn ép, không làm ăn được. Với khát vọng chứng tỏ người Việt cũng có thể cạnh tranh ngang ngửa với người Hoa ngay trên lĩnh vực đông nam dược, Phó Đức Thành đã nhận lời giúp đỡ và làm quản lý cho hiệu thuốc của Phó Đức Chu.
Tuy nhiên, ông không chọn cách đối đầu trực tiếp với người Hoa ở ngay lãnh địa của họ là phố Phúc Kiến (Hà Nội), mà ông chọn Vinh - Bến Thủy làm “căn cứ địa”. Ông cho rằng: Vinh - Bến Thủy là một đô thị trẻ, có nhiều thuận lợi về giao thông. Hoạt động đông nam dược của người Hoa ở đây chưa mạnh như các nơi khác ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Hơn nữa Nghệ Tĩnh là đất của Nho học, tất có nhiều nhà nho, nhiều người biết và dùng đông y.
Việc kinh doanh thuốc Bắc, thuốc Nam chắc sẽ thuận lợi. Suy tính như vậy, Phó Đức Thành đã mạnh dạn từ bỏ mọi thứ đã có ở Huế, để ra Vinh lập nghiệp. Từ một hiệu thuốc nhỏ ban đầu, Phó Đức Thành đã từng bước tạo lập được vị thế trên thị trường ở Vinh. Khi đã khá vững chắc, ông quyết định đầu tư lớn. Năm 1928, sự kiện Vĩnh Hưng Tường bỏ ra 2 vạn đồng, mua lại tòa nhà của Tòa án Dân sự tọa lạc ngay trước cửa chợ Vinh, để làm trụ sở, có thể coi là một bước ngoặt lớn, thật sự biến Vĩnh Hưng Tường thành thế lực số 1 về đông nam dược không chỉ ở Vinh - Bến Thủy.
Để cạnh tranh với người Hoa, ông trực tiếp nhập khẩu thuốc Bắc từ Hồng Kông để “mua tận gốc”. Đồng thời, mở đại lý ở nhiều vùng khắp Bắc, Trung, Nam để “bán tận ngọn”. Ngoài “Tổng cục” đặt ở Hà Nội, Vĩnh Hưng Tường có 2 “Phân cục” ở Vinh và Việt Trì. Dưới các “Phân cục” là các “Chi điếm” ở: Hà Tĩnh, Đô Lương, Cầu Giát, Đồng Hới, Huế, Tourane (Đà Nẵng), Faifo (Hội An), Hồng Kông, Phúc Yên, Yên Bái, Bắc Ninh, Phú Thọ, Tuyên Quang…
Yếu tố chất lượng thuốc luôn được đề cao là nguyên nhân quan trọng nhất làm nên thương hiệu Vĩnh Hưng Tường trong suốt thời gian dài và khắp trong Nam, ngoài Bắc. Với tư cách là một người bán hàng, Phó Đức Thành cũng hết sức coi trọng chữ tín đối với khách hàng. Trong một bài báo của mình, Phó Đức Thành đã chia khách hàng làm 7 loại theo đặc điểm riêng và cách ứng xử thích hợp của người bán hàng đối với từng loại.
Ông cho rằng khách hàng dù loại nào mà không vui lòng cũng là trách nhiệm của người bán hàng. Không chỉ tạo việc làm cho hơn 30 người tại trụ sở chính và hàng trăm người khác ở các chi nhánh, Vĩnh Hưng Tường và cá nhân Phó Đức Thành còn tài trợ, chủ trì, tổ chức và quản lý các hoạt động từ thiện ở Hội Tập Phúc, Hội Dục Anh, Nhà Tế bần, các hoạt động truyền bá quốc ngữ ở Văn Miếu Vinh, các hoạt động cứu đói năm 1945…
Không chỉ nghiên cứu, áp dụng các bài thuốc có sẵn, Phó Đức Thành là một trong những lương y Việt Nam đầu tiên say mê sưu tầm, phát hiện và nghiên cứu về cây thuốc Nam và vận động trồng thuốc Nam. Những năm 1930, ông đã nhiều lần thám hiểm miền Tây xứ Nghệ để tìm cây thuốc, đồng thời xây dựng vườn thuốc Nam ở Văn Miếu Vinh.
Đặc biệt, ông đã nghiên cứu được nhiều bài thuốc và bào chế được một số thuốc tốt từ thảo dược Việt Nam. Trong đó nổi bật có “dầu cù là” Vĩnh Hưng Tường, mang tên “Vạn Ứng”. Lúc đầu Vạn Ứng chỉ là một loại dầu xoa dạng nước, sau đó được chế thêm loại cao đặc và đa dạng hóa sản phẩm theo từng mùa. Sau này, khi đã ra công tác ở Bộ Y tế, Phó Đức Thành chuyển giao công thức chế biến dầu Vạn Ứng cho Xí nghiệp dược phẩm Trung ương 2. Từ đó, sản phẩm này đã phát triển thành thương hiệu “Cao Sao Vàng” nức tiếng trong và ngoài nước. Được biết, ông không hề nhận một đồng tiền “bản quyền” nào cho sáng chế này.
Thế nhưng, điều đặc biệt làm nên uy tín và tên tuổi của Phó Đức Thành trong giới đông y chính là sự dấn thân không biết mệt mỏi, không ngại hiểm nguy cho sự nghiệp bảo tồn và phát triển Đông y của nước nhà. Dưới thời thuộc Pháp, chính sách của Nhà nước không những không khuyến khích Đông y, mà còn tìm mọi cách quản lý chặt chẽ để triệt tiêu dần.
Trong bối cảnh đó, suốt từ năm 1930 đến năm 1943, Phó Đức Thành đã viết rất nhiều bài báo về Đông y bằng tiếng Việt và tiếng Pháp, đăng ở nhiều tờ báo khác nhau. Không chỉ viết báo, ông còn tranh thủ mọi cơ hội để quảng bá về Đông y, như đưa cây thuốc, thuốc Nam tham gia các hội chợ; tranh thủ tình thân với các quan chức người Pháp để tác động cho họ hiểu về nam dược… Đặc biệt, ông đã dành hết tâm sức để lập cho được tổ chức của những người hành nghề Đông y. Ngay khi mua được trụ sở mới, năm 1928, Phó Đức Thành đã dành một căn phòng riêng để làm nơi sinh hoạt của “Tổ ấm Đông y”, quy tụ các lương y nổi tiếng tài đức trong vùng. Suốt từ năm 1928 đến năm 1936, ông kiên trì và ráo riết chuẩn bị các tiền đề cần thiết để tiến tới lập Hội Đông y Trung Kỳ.
Năm 1936 Hội Y học Trung Kỳ chính thức được thành lập, lương y Phó Đức Thành được tiến cử giữ chức Quản lý vĩnh viễn của hội. Đây là chức danh phải được nhà nước Bảo hộ phê duyệt.
Hội đã xuất bản Tạp chí Đông y, mở lớp dạy Đông y, mở phòng khám bệnh… Hội có trụ sở riêng. Thậm chí mấy năm sau đã thuê được trụ sở 2 tầng khang trang ở phố Cửa Tả, thành phố Vinh. Hội cũng có xe ô tô riêng và ngân quỹ khá dồi dào. Tất cả đều nhờ công lao to lớn và bàn tay thu vén khéo léo của Phó Đức Thành.
Sau đó, Phó Đức Thành còn đôn đáo ra Bắc vận động thành lập Hội Y học Bắc Kỳ, vào Nam vận động lập Hội Y học Nam Kỳ. Ngày 17/7/1943 chính quyền Đờ Cu (Decoux) lại ra nghị định về quản lý, thực chất là cấm đoán Đông y. Phó Đức Thành lại tiếp tục viết nhiều bài báo nêu quan điểm “Cấm đoán, hạn chế như vậy là vô lý”. Ông còn đi nhiều nơi, gặp nhiều quan chức Pháp có vai vế trong giới Tây y để vận động. Cuối cùng những cố gắng không mệt mỏi của ông đã được đền đáp: Chính quyền Đờ Cu đã phải bãi bỏ nghị định nói trên.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Phó Đức Thành tham gia nhiều hoạt động xã hội. Ông là đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Vinh (1945 - 1947). Năm 1954 ông trở thành Ủy viên Thường trực của Ban Chấp hành Mặt trận Tổ quốc Liên khu 4. Ngày 4/2/1956, ông kiêm chức Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thị xã Vinh - Bến Thủy. Tháng 12/1956 ông được Bộ Y tế điều động về bộ, để hoạt động trong lĩnh vực Đông y, xúc tiến thành lập Hội Đông Y Việt Nam. Ông mất năm 1968, trong chuyến công tác tại Cao Bằng bởi một tai nạn giao thông thảm khốc.
Trong cuộc đời hoạt động sôi nổi của mình, lương y Phó Đức Thành có 30 năm gắn bó với thành phố Vinh. Đó cũng là thời kỳ mà sự nghiệp của ông thăng hoa trên mọi lĩnh vực. Có thể nói Phó Đức Thành là một gương mặt đặc sắc của đô thị Vinh nửa đầu thế kỷ XX.
“Một trí thức yêu nước, danh y của thế kỷ XX” là danh hiệu mà Chủ tịch Trung ương Hội Đông y Việt Nam, bác sĩ Nguyễn Xuân Hưởng dành cho Phó Đức Thành.
Sau năm 1975, Việt Nam và Liên Xô đẩy mạnh trao đổi hàng hóa. Cao Sao Vàng là một trong những mặt hàng xuất khẩu sang Liên Xô. Sản phẩm được giao cho 5 xí nghiệp dược sản xuất. Riêng xí nghiệp dược ở Đà Nẵng đã được giao chỉ tiêu sản xuất mỗi năm trung bình 10 -15 triệu hộp. Đỉnh cao là 1983, với sản lượng được giao 20 triệu hộp, thấp nhất là năm 1986, năm cuối cùng có chỉ tiêu sản xuất với 4 triệu hộp.
Sau khi việc xuất khẩu sang Liên Xô kết thúc, sản lượng tiêu thụ của cao Sao Vàng sút giảm. Nhiều đơn vị đăng ký sản xuất cao Sao Vàng, tuy nhiên, ít doanh nghiệp giữ được sản lượng ổn định. Ngoài thị trường trong nước, các doanh nghiệp tìm cách tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nước ngoài như Nga, Đức....
Sau một thời gian trầm lắng vì những sản phẩm có tác dụng tương tự như dầu cù là, dầu khuynh diệp... cạnh tranh trên thị trường trong nước, thời gian 2013 - 2014 cao Sao Vàng lại được nhắc tới khi trở thành mặt hàng bán chạy trên thị trường quốc tế. Trên các trang bán hàng trực tuyến hàng đầu, sản phẩm này có giá cao gấp đến hàng chục lần so với giá gốc tại Việt Nam.