Các hệ thống phòng thủ đa tầng, được kết nối mạng hiện đại kết hợp với chiến thuật linh hoạt giúp tàu sân bay Mỹ chống lại gần như tất cả mọi mối đe dọa.
Với kích thước đồ sộ, các tàu sân bay Mỹ được cho là dễ trở thành mục tiêu của các loại vũ khí diệt hạm ngày càng hiện đại và chính xác. Tuy nhiên, khả năng các đối thủ có thể đánh chìm các "pháo đài nổi" này của Mỹ mà không dùng tới vũ khí hạt nhân gần như bằng không, theo National Interest.
Loren B. Thomson, giám đốc điều hành Viện nghiên cứu phi lợi nhuận Lexington, cho rằng các tàu sân bay Mỹ hiện nay sở hữu 5 tuyến phòng thủ giúp chúng trở nên bất khả chiến bại trên đại dương.
Trước hết, các tàu sân bay của Mỹ có độ cơ động và linh hoạt cao so với kích thước khổng lồ của chúng. Các con tàu hàng trăm nghìn tấn này có thể di chuyển với vận tốc lên tới hơn 56 km/h, khiến các tàu ngầm chạy chậm hơn rất khó phát hiện và theo dõi, và chỉ trong 30 phút sau khi bị đối phương phát hiện, phạm vi hoạt động của tàu sân bay được nới rộng lên hơn 1.800 km vuông, và sau 90 phút, nó có thể ở bất cứ đâu trong diện tích 15.500 km vuông.
Ngoài ra, các tàu sân bay lớp Nimitz và lớp Ford hiện nay thường có 25 tầng, cao 76 m, lượng giãn nước 100.000 tấn. Với hàng trăm khoang chống nước và lớp vỏ thép cực dày, không một ngư lôi hoặc thủy lôi thông thường nào có khả năng gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho tàu.
Thứ hai, tàu sân bay Mỹ được trang bị các hệ thống phòng thủ uy lực, tích hợp công nghệ chủ động và thụ động với tầm bắn mở rộng để tiêu diệt các mối đe dọa như các tên lửa hành trình tầm thấp và các tàu ngầm đối phương.
Các hệ thống phòng thủ này bao gồm một loạt các thiết bị cảm biến nhạy bén, các tên lửa dẫn đường bằng radar và các pháo Gatling 20 mm có tốc độ bắn cực nhanh 50 viên mỗi giây.
Phi đội 60 máy bay trên tàu gồm một đội máy bay trang bị radar cảnh báo sớm có thể phát hiện các mối đe dọa đang tiếp cận từ khoảng cách rất xa, trong khi các trực thăng săn ngầm có thể đối phó hiệu quả với tàu ngầm đối phương. Các hệ thống cảm biến và vũ khí phòng thủ của tàu sân bay đều được kết nối mạng với một trung tâm chỉ huy trên boong để phối hợp tiêu diệt kẻ thù.
Thứ ba, các tàu sân bay Mỹ không hoạt động độc lập, mà thường được triển khai theo cụm tác chiến gồm nhiều tàu khu trục tên lửa dẫn đường được trang bị AEGIS, hệ thống phòng thủ tên lửa và phòng không hiện đại nhất thế giới, có khả năng tiêu diệt mọi mối đe dọa tiềm tàng, kể cả tên lửa đạn đạo.
Hệ thống AEGIS được kết nối với các hệ thống tấn công và phòng thủ khác trên các tàu chiến mặt nước Mỹ để tiêu diệt tàu ngầm, tàu mặt nước và thủy lôi trên biển, hoặc vô hiệu hóa các hệ thống cảm biến dẫn đường tên lửa tấn công của địch.
Khi kết hợp với không đoàn trên tàu sân bay, đội tàu chiến hộ tống này có thể nhanh chóng loại bỏ các hệ thống dẫn đường tấn công của đối phương. Các cụm tàu sân bay Mỹ cũng thường được biên chế thêm một hoặc nhiều tàu ngầm tấn công tàng hình để tiêu diệt các mối đe dọa dưới lòng biển và trên mặt nước.
Thứ tư, chiến thuật linh hoạt có thể giúp tàu sân bay tối ưu hóa khả năng sống sót trước các mối đe dọa. Chiến thuật tác chiến của các tàu sân bay đã được phát triển trong thời gian dài để giảm thiểu rủi ro, đồng thời giúp tàu duy trì khả năng phát động đòn tấn công theo kế hoạch.
Chẳng hạn, một tàu sân bay sẽ không tiến vào vùng biển chứa nhiều thủy lôi cho tới khi chúng được tàu quét mìn dọn sạch toàn bộ. Các tàu sân bay cũng có xu hướng hiện diện ở vùng biển mở thay vì tiếp cận các vùng biển kín, nơi tàu chiến địch có thể lẫn vào các tàu bè thông thường.
Trên biển rộng, tàu sân bay sẽ liên tục di chuyển để khiến đối phương khó phát hiện và theo dõi. Tàu sân bay Mỹ cũng được kết nối với các khí tài khác từ đáy biển cho đến vệ tinh tầm thấp để tiếp nhận các thông tin cảnh báo sớm cụ thể.
Thứ năm, sự ra đời của các công nghệ mới giúp tàu sân bay Mỹ tăng cường khả năng phòng thủ của mình.
Hải quân Mỹ gần đây đã đầu tư ồ ạt vào các công nghệ phòng thủ và tấn công hiện đại cho tàu sân bay để đối phó với các mối đe dọa mới. Tiến bộ công nghệ quan trọng nhất gần đây là công nghệ kết nối tất cả các hệ thống, khí tài của hải quân trong một khu vực để tối đa hóa hiệu quả tác chiến. Các sáng kiến như chương trình Kiểm soát hỏa lực - phòng không tích hợp (NIFCA) giúp kết nối mọi hệ thống chiến đấu hiện có vào một màn hình phòng thủ phản ứng nhanh, thông suốt mà kẻ thù khó có thể thâm nhập vào hệ thống.
Một loạt công nghệ mới khác đang được áp dụng, từ khả năng trinh sát thâm nhập của các tiêm kích tàng hình cho đến các thiết bị gây nhiễu trên tàu có thể đánh lừa hệ thống dẫn đường tên lửa tối tân.
"Các tuyến phòng thủ giúp tàu sân bay Mỹ sống sót khiến không nhiều quốc gia có thể gây ra mối đe dọa thực sự đến các chiến hạm đắt giá nhất của Mỹ, trừ khi sử dụng vũ khí hạt nhân. Với tầm hoạt động không giới hạn và sự linh hoạt nhờ chạy bằng năng lượng hạt nhân, tàu sân bay có thể giúp Mỹ thực thi lợi ích ở mọi nơi trên thế giới. Điều này vẫn đúng trong nhiều thập kỷ tới trong bối cảnh hải quân Mỹ hiện vẫn đang đầu tư vào các công nghệ chiến tranh mới", Thomson nhất mạnh.
Theo VNE