Mẫu sedan giá rẻ của hãng xe bình dân Đức tạo hình ít bóng bẩy, tập trung vào yếu tố an toàn, sự tiện dụng và hiệu năng vận hành.
So với các đối thủ đang trong kỳ cách mạng hóa về thiết kế thì Polo lại có phương án chững lại. Thị trường chính của các đối thủ như Ford Fiesta, Honda City hay Toyota Vios là nhóm những nước đang phát triển, Polo lại tập trung lấy lòng khách hàng tại nhóm các nước châu Âu, vốn có thói quen dùng xe hơi lâu đời.
Điều này lý giải trong nhóm 10 xe hơi bán chạy nhất châu Âu năm 2016 có đến 3 mẫu xe của Volkswagen gồm Golf, Polo và Passat. Đại bản doanh của Polo đặt tại Ấn Độ và xuất khẩu đi toàn thế giới. Nhà máy của VW ở Nga hay Nam Phi cũng lắp ráp dòng xe này, nhưng chủ yếu phục vụ thị trường trong nước.
Về Việt Nam, Volkswagen Polo có phiên bản hatchback và sedan. Bản hatchback cao hơn 5 triệu đồng so với Polo sedan có giá 690 triệu đồng, chưa bao gồm chiết khấu tại đại lý. Về kích thước, bản sedan dài hơn so với hatchback. Trục cơ sở 2.552 mm. Các thông số dài, rộng, cao lần lượt là 4.384 mm, 1.699 mm và 1.466 mm, tương đương Toyota Vios hay Honda City. Polo sử dụng hệ khung gầm VW A05 (mã PQ25) chung với mẫu xe sang Audi A1.
Trang thiết bị của Polo sedan khá tương đồng với các đối thủ Nhật Bản, nổi trội hơn ở một vài trang bị nhỏ. Đèn chiếu sáng chỉnh tay, dạng bóng halogen tích hợp đèn sương mù phía dưới. Gương chiếu hậu gập và chỉnh điện. Bốn cửa kính điện, một chạm tự động lên xuống. Hai kính phía sau chỉ hạ xuống được một nửa nhằm mục đích giữ an toàn khi trẻ nhỏ ngồi sau. Khi người lái ở ngoài xe, giữ nút mở trên chìa khóa, cả 4 cửa kính tự động hạ xuống để thoát hơi nóng trước khi chủ nhân vào xe. Điều này ngược lại khi khóa xe, người lái có quên lên kính, vẫn dễ dàng điều khiển từ chìa khóa.
Điều hòa tự động một vùng. Hệ thống giải trí có thể tùy chọn màn hình cảm ứng, hệ điều hành Android với các kết nối Bluetooth, USB, thẻ SD và bộ dẫn đường Vietmap. Polo trang bị 4 loa tiêu chuẩn.
Tính năng an toàn trên bản sedan khiêm tốn với phanh ABS. Trên bản hatchback (đắt hơn 5 triệu đồng) trang bị thêm hệ thống ổn định thân xe điện tử ESC, kiểm soát độ bám đường ASR, hỗ trợ phanh khẩn cấp BA, kiểm soát lực kéo ETC và đèn chiếu sáng có khả năng mở rộng góc chiếu khi vào cua.
Động cơ trang bị trên hai phiên bản là loại dung tích 1,6 lít 4 xi-lanh thẳng hàng nạp khí tự nhiên. Hệ thống phun xăng điện tử đa điểm MPI và trục cam đôi DOHC. Hệ dẫn động cầu trước. Hộp số tự động 6 cấp, chưa được trang bị hộp số DSG ly hợp kép. Polo đạt công suất 105 mã lực tại tua máy 5.250 vòng/phút, sức kéo tối đa 153 Nm tại 3.800 vòng/phút. Mức tiêu thụ nhiên liệu công bố là 5,3 lít/100 km dù điều kiện giao thông tại Việt Nam khá vất vả để đạt được con số này.
Sự khác biệt của Polo sedan với các đối thủ Nhật Bản đến từ tính năng vận hành. Vios hời hợt, ít cá tính nhưng thực dụng, City cá tính nhưng ồn ào thì Polo dung hòa những yếu tố trên. Vô-lăng Polo là loại đáy vuông như nhiều mẫu xe thể thao nhà Audi, tiện cho tài xế ra vào xe.
Không gian cabin được người Đức sắp xếp thực dụng với nhiều hốc chứa đồ. Bệ tì tay có khả năng tùy chỉnh độ cao, kèm chứa đồ là thứ đối thủ không có. Nóc xe cao nên không gian bên trong thoáng đãng, tầm nhìn rộng rãi. Hàng ghế thứ hai có độ ngả vừa phải, thoải mái trong hành trình dài. Hàng ghế thứ hai không có bệ tì tay.
Trợ lực lái chắc chắn hơn Vios nhưng độ chính xác chưa bằng City. Tiếng đóng cửa chắc nịch đậm chất Đức, cabin Polo sedan cách âm sàn tốt. Tiếng dội vào cabin chủ yếu từ động cơ. Di chuyển trong phố, Polo linh hoạt nhờ kích thước vừa phải. Bán kính vòng quay 5,4 m. Hộp số chuyển số không "nấc" và dễ nhận ra như xe Nhật.
Ra đường trường, Polo thể hiện ưu thế vượt trội so với đối thủ, nhưng vẫn gặp nhiều hạn chế của dòng "sedan bao tử". Tăng tốc chạm mốc 120 km/h, điều mà ít tài xế sedan cỡ nhỏ muốn chạm đến. Polo chuyển số không quá êm nhưng hộp số linh hoạt và hiểu ý người lái. Bàn đạp ga nặng kiểu Đức, xuất phát không hay vù ga như xe Nhật. Ở tốc độ cao, lợi thế khung gầm "Germany" giúp Polo không dễ nao núng, làm chùn tay người lái. Bộ giảm xóc cứng hơn chứ không bồng bềnh, dù hơi xóc và xót xe khi đi qua gờ giảm tốc hoặc ổ gà.
Giữ đều tốc độ 100 km/h, tua máy động cơ chạm ngưỡng 2.100 vòng/phút. Tiếng gió là âm thanh lớn nhất trong cabin do thiết kế ít tối ưu khí động học, VW buộc phải đánh đổi lấy công năng sử dụng. Cách âm sàn xe tốt đặc trưng xe Đức. Tốc độ 80-100 km/h là dải vận hành ổn định nhất của Polo ngoài đường trường. Ngoài ra, vận hành Polo ở dải tốc độ cao khi đi qua gờ giảm tốc hoặc ổ gà, hiện tượng văng đuôi cũng không xuất hiện nhờ thân xe chắc và trợ lực lái đầm, ổn định.
Phân khúc xe hạng B (bao gồm cả sedan và hatchback) tại Việt Nam đang là màn trình diễn của riêng Toyota Vios và Honda City, hai lựa chọn hàng đầu của khách hàng có nhu cầu kinh doanh. Mazda2, Ford Fiesta hay Toyota Yaris ghi điểm nhờ công nghệ tiên tiến, thiết kế được lòng khách hàng trẻ hoặc sự bền bỉ đã được kiểm chứng. Cánh cửa chưa hẳn khép lại cho Polo nói riêng và VW nói chung nhờ chất lượng nền tảng và yếu tố Đức. Tuy nhiên, để chen chân vào miếng bánh thị phần đã được chia sẵn, "gã khổng lồ" Đức vẫn cần nhiều hơn quyết tâm và ý chí từ nhà phân phối tại Việt Nam./.
Theo VNE