(Baonghean) - Ngày 12/11/2011, tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bộ Công thương - Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học: Võ Quý Huân - "Người kỹ sư nặng tình non nước". Đó là người con Xứ Nghệ, từng du học với ba bằng Đại học tại Pháp, là một trong bốn trí thức Việt được Bác Hồ đưa về nước tham gia kháng chiến. Ông là "cha đẻ của ngành đúc - luyện kim Việt Nam"…
Võ Quý Huân sinh năm 1912 trong một gia đình giáo học tại xã Thanh Tùng huyện Thanh Chương (Nghệ An). Năm 1935-1937, Võ Quý Huân tham gia phong trào Bình dân, làm Chủ nhiệm Báo Đông Dương hoạt động (L'activité Indochinoise) xuất bản song ngữ Việt - Pháp. Đây là một tờ báo tiến bộ đương thời nên bị thực dân Pháp đóng cửa; Võ Quý Huân phải trốn sang Pháp để học. Ông đã giành được 3 bằng kỹ sư các ngành: cơ điện, đúc và kỹ nghệ chuyên nghiệp. Sau đó, ông làm việc cho hãng tàu thủy Compagnie Translatique (Pháp) và một số nhà máy lớn. Ông cũng là kỹ sư trưởng tại nhà máy nghiên cứu sản xuất động cơ máy bay Potef… Ông tham gia Tổng Công đoàn Pháp (CGT), là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp từ năm 1939. Ông hoạt động tích cực trong hội Việt kiều tại Pháp, vừa là phiên dịch, vừa là một trong hai người đã chụp ảnh, quay gần 1.000 thước phim tư liệu về chuyến công tác đặc biệt của Bác Hồ tại Pháp. Năm 1946, ông là một trong bốn kĩ sư được Bác Hồ chọn về nước cùng với Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa), Trần Hữu Tước và Võ Đình Quỳnh. Hơn một tháng được sống gần gũi bên Người, sau này họ được gọi đó là "những học viên đặc biệt" của "Trường Nguyễn Ái Quốc đặc biệt"!
Trở về nước, kĩ sư Phạm Quang Lễ được giao ngay trọng trách – Cục trưởng Cục Quân giới; kĩ sư Võ Quý Huân – Giám đốc Sở Khoáng chất kỹ nghệ Trung bộ. Tại đây, ông chỉ huy sơ tán hai nhà máy Xe lửa Tràng Thi và Điện Bến Thủy lên rừng núi phía tây; lần lượt thành lập các nhà máy Kinh tế 1-2-3 Và Trường Cán bộ Kỹ thuật Trung bộ. Võ Quý Huân là Giám đốc kiêm “tổng công trình sư” cùng các cộng sự gồm: đốc công Lê Tiến Văn, tổ trưởng luyện gang Lê Huy Yêm, tổ trưởng luyện cốc Nguyễn Thái Đồng, phụ trách năng lượng Lê Khánh Cư thiết kế lò cao dã chiến 3KC1, sản xuất gang để phục vụ kháng chiến.
Chiều 15/11/1948, mẻ gang đầu tiên - từ quặng sắt Vân Trì - Nghi Lộc đã được nhiệt luyện, nóng chảy trong lò cao 450 lít. Dòng suối gang chảy ra trong sự reo hò của cán bộ, công nhân cùng bà con Cầu Đất - Con Cuông. Các ông đã dùng các thỏi gang đầu tiên đúc tượng Bác Hồ, tri ân Người đã đưa các trí thức yêu nước từ Pháp về, xây dựng lò luyện kim ngay trên quê hương Xô viết. Anh em muốn báo cáo với Bác ngành Đúc - Luyện kim non trẻ đã có sản phẩm phục vụ kháng chiến.
Các lò cao 3KC2, 3KC3 với dung tích 1m3 lần lượt ra đời. Hàng nghìn tấn gang, hàng loạt mìn, lựu đạn - những vũ khí “made in Vietnam” được chế tạo theo thiết kế của Trần Đại Nghĩa và sản xuất đại trà bằng gang của Võ Quý Huân được đưa ra chiến trường, phục vụ đắc lực vào công cuộc kháng chiến.
Không chỉ là người làm ra mẻ gang đầu tiên của ngành Đúc - Luyện kim Việt Nam mà Võ Quý Huân còn là người thầy đào tạo ra những “thợ cả” đầu tiên chuyên ngành Đúc - Luyện kim nước ta. Các học trò từ thời kháng chiến như Hà Học Trạc, Hoàng Bình, Thái Duy Thẩm, Nguyễn Đình Nam, Nguyễn Hựu, Nguyễn Thái Đồng, Phan Cầu… và sau ngày hòa bình 1954: Trần Lum, Lê Ba, Trần Bạch Đằng, Vũ Đình Hoành… đã trở thành những cán bộ chủ chốt trong ngành Đúc - Luyện kim và Bộ Công nghiệp nặng.
Ngày 20-9-1947, trong thư gửi BS.Trần Hữu Tước, Bác Hồ viết:"...Nói chú biết, chú mừng: Tôi vẫn mạnh khỏe luôn. Mấy anh em cùng về một lần với chúng ta, chú Nghĩa và chú Huân làm việc rất hăng hái và đắc lực, đã gắng sức rất nhiều trong công việc kháng chiến"...
Võ Quý Huân là người Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Kỹ nghệ thực hành, tiền thân của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. Các thế hệ thầy, trò nhà trường đánh giá rất cao tầm kiến tạo, xác định hướng đi của trường từ những thời sơ khai của người Hiệu trường tài năng xứ Nghệ. Họ cho biết: Thầy Huân hiền lành nhưng cẩn trọng, nghiêm túc. Thầy trực tiếp dạy, trực tiếp hướng dẫn thực hành. Hồi đó, chúng tôi đã rất tự hào thầy Hiệu trưởng của mình có ba bằng Đại học từ Pháp về, nhưng không nghe thầy "khoe" gì thêm.
Công lao của ông với đất nước là rất lớn nhưng không thể không nhắc đến sự hy sinh hạnh phúc cá nhân cho dân tộc. Khi trở về nước, ông phải xa vợ và con gái. Không ngờ, cuộc chia ly ấy kéo dài hàng chục năm. Dấn thân với công việc, không thể quay trở lại Pháp, ông xây dựng gia đình mới nhưng ông luôn trăn trở với mái ấm gia đình ở Pháp. Đó là người vợ gốc Nga, đứa con gái mang tên hai dân tộc Võ Quý Việt Nga (ta đã thấy qua ảnh tư liệu Bác Hồ bế cháu bé năm 1946). Thậm chí, con gái ông từng “mang hận với người cha thất hứa”. Trước khi nhắm mắt (tháng 9/1967) ông đã trăn trối hết với tổ chức và gia đình.
Phải gần 50 năm sau ngày chia ly, con gái Võ Quý Hòa Bình cùng cháu ngoại của ông đã đến Paris, tìm đến nhà chị Võ Quý Việt Nga. Cuộc trùng phùng với đầy nước mắt đã làm chị Việt Nga hiểu hơn về người bố đã hi sinh hạnh phúc riêng và sự nghiệp để phụng sự Tổ quốc. Gia đình đoàn tụ, âu cũng làm cho ông dưới suối vàng thanh thản.
Võ Quý Huân, một trí thức yêu nước, đã có những đóng góp to lớn cho dân tộc. Sinh thời, GS. Trần Đại Nghĩa đã viết "con tim anh nặng tình non nước". GS. Vũ Khiêu đã tặng Võ Quý Huân đôi câu đối: "Theo Bác Hồ, vì nước quên thân; để lại tình yêu hạnh phúc, cam lòng nhớ vợ xa con, ý chí sáng ngời năm tháng ấy. Về Tổ quốc, đúc đồng, luyện thép; tạo ra vũ khí tân kỳ, góp sức rèn binh giết giặc, công lao còn mãi núi sông này". Nhà sử học Dương Trung Quốc nói: Võ Quý Huân thuộc "thế hệ vàng" của cách mạng Việt Nam… Nhân dân không bao giờ quên ông! Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, HĐND thành phố Hà Nội đã quyết định đặt tên con đường phía trước Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội là đường Võ Quý Huân.
Võ Quý Huân- Người kỹ sư nặng tình non nước
Anh Đặng