(Baonghean) - Trong cuộc đời của Bác Hồ, quê hương luôn giữ một vị trí quan trọng. Dù thời gian Bác sống ở Nghệ An không nhiều, nhưng tấm lòng thương nhớ, bao nỗi trăn trở với quê hương luôn theo bên Bác.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, ngoài 2 lần về thăm quê vào các năm 1957 và 1961, Bác còn có hàng chục bức thư gửi về quê hương trong thời gian lãnh đạo đất nước từ sau cách mạng cho đến lúc qua đời; trong đó Người đã dặn dò quê hương nhiều vấn đề quan trọng mà cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, thì đúng nửa tháng sau, ngày 17/9/1945, Người gửi bức thư đầu tiên về Nghệ An. Từ đó đến cuối đời, Bác Hồ đã gửi về quê 25 bức thư và 2 bức điện. Ngoài những bức thư gửi về Nghệ An, Bác còn nhiều bài nói chuyện, bài viết trên báo chí và các bức thư gửi chung cho cả quân, dân Liên khu IV, Bắc Trung bộ...; trong đó có đề cập đến quân, dân Nghệ An.
Phần lớn trong các bức thư, Bác đều gửi gắm nhiều tình cảm trân trọng đối với con người ở quê hương. Tuy nhiên, nỗi lo lắng, động viên của Bác dành cho quê hương cũng chuyển động theo tình hình biến chuyển của công cuộc kháng chiến kiến quốc.
Các bức thư xoay quanh các vấn đề quan trọng như kêu gọi quân, dân Nghệ An đẩy mạnh phong trào đánh giặc và sản xuất; chia sẻ kinh nghiệm trong các hoạt động; chấn chỉnh tinh thần và đạo đức cách mạng của cán bộ; khen ngợi và động viên nhân dân trong các phong trào kháng chiến, kiến quốc. Bác thường kết thúc các bức thư bằng câu “Chào thân ái và quyết thắng”.
Trong kháng chiến chống Pháp, Bác có 9 bức thư, điện gửi về Nghệ An, với nội dung chính là phân tích tình hình, nhắc nhở và động viên đảng bộ, đồng bào, quân, dân tỉnh nhà trong công cuộc xây dựng lực lượng, tham gia kháng chiến, đấu tranh chống giặc đói, giặc dốt. Khoảng giữa 2 chuyến về thăm quê từ 1957 đến 1961, Bác gửi 2 bức thư về Nghệ An để khen ngợi hội phụ lão xã Nam Liên và động viên đồng bào thị xã Vinh vừa trải qua hỏa hoạn.
Và, thời gian Bác quan tâm nhiều nhất đến tình hình quê nhà là khi chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ leo cao. Trong 4 năm từ 1965 đến 1968, Bác gửi 12 bức thư về quê. Những bức thư này chủ yếu khen ngợi và nhắc nhở tinh thần cảnh giác của quân dân Nghệ An với các thành tích to lớn trong kháng chiến. Trong đó có đến 7 bức thư Bác gửi về khen ngợi thành tích bắn rơi máy bay Mỹ của quân, dân quê nhà.
Đối tượng cụ thể được Bác gửi thư cũng khá đa dạng. Có thư gửi cho cá nhân (như cụ Hà Văn Quận); có thư gửi một xã (Nam Liên) hay gửi hội phụ lão, các cháu học sinh trong xã; có thư gửi cấp huyện như gửi đồng bào thị xã Vinh, gửi đồng bào huyện Quế Phong...; rồi thư gửi cho Đảng bộ tỉnh; thư gửi chung cho toàn thể đồng bào tỉnh Nghệ An...
Bác đã dành mối quan tâm cho hầu hết mọi đối tượng, từ người già đến trẻ em, từ các đảng viên, chiến sĩ, người công nhân đang làm đường sắt, người nông dân đang sản xuất nông nghiệp, người thanh niên xung phong đang làm đường để đảm bảo giao thông cho xe ra chiến trường, người y tá làm việc trong nhà thương hay người bệnh đang phải ở nhà thương...
Bên cạnh đó, Bác không thu hẹp nội dung các bức thư bởi các đối tượng mà luôn đặt mọi con người vào cuộc chiến chung, mục tiêu chung là kháng chiến kiến quốc. Dù hỏi thăm, khen ngợi hay động viên ai thì Bác cũng luôn gắn họ và công việc của họ vào sự nghiệp chung của cả dân tộc.
Thư gửi các cán bộ lãnh đạo tỉnh thì Bác phân tích kỹ hơn, còn thư gửi cho công nhân, nông dân thì Bác cố gắng viết ngắn, dễ hiểu nhưng vẫn đầy đủ. Bác luôn quan tâm từ những việc nhỏ như việc đồng bào sản xuất vụ lúa, vụ khoai như thế nào, năng suất được bao nhiêu, bón bao nhiêu phân... đến những việc lớn hơn của cả tỉnh, cả nước là sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước.
Trong thư của Bác cũng dành sự quan tâm cho những đồng bào công giáo ở Nghệ An. Ngoài một bức thư chung gửi đồng bào công giáo, Bác còn có một bức điện gửi riêng người dân công giáo Xã Đoài để chia sẻ những đau thương mất mát khi bà con giáo dân bị máy bay Mỹ ném bom vào tháng 8/1968.
Là một người lãnh tụ luôn kiên định quan điểm hy sinh việc nhà chăm lo việc nước, nên có nhiều bức thư gửi về quê hương nhưng rất ít khi Bác nói đến tình riêng. Ngoài 2 lần về thăm quê nhà, Bác chỉ có gửi 1 bức thư và 1 bức điện về cho họ hàng, người thân. Đó là “Thư gửi ông Hoàng Phan Kính và Trần Lê Hữu, xã Nam Liên, huyện Nam Đàn” (1949) và điện gửi họ Nguyễn Sinh (1950).
Trong thư gửi cậu dượng, Bác cũng chỉ nói vài câu tình riêng, còn lại đều nói về tình hình đất nước và nhiệm vụ của mọi người trong cuộc kháng chiến. Chỉ có bức điện gửi về năm 1950 khi anh cả Nguyễn Sinh Khiêm qua đời là Bác nói về tình riêng của “một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”.
Chấn chỉnh đạo đức, nâng cao năng lực, chống sự suy thoái của người đảng viên là một trong những nội dung được Bác quan tâm nhiều nhất. Ngay trong bức thư đầu tiên “Gửi các đồng chí tỉnh nhà” ngày 17/9/1945, Bác viết: “Thơ này, tôi không dùng danh nghĩa Chủ tịch của Chính phủ, nhưng chỉ lấy danh nghĩa của một người đồng chí già mà viết để chia sẻ ít nhiều kinh nghiệm với các đồng chí...”. Trong thư phân tích rõ nguyên nhân thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tình hình đất nước sau cách mạng và nhiệm vụ của mọi người.
Đặc biệt Bác nhấn mạnh đến những khuyết điểm to lớn ở các địa phương để nhắc nhở các đảng viên phải tránh và chống khuynh hướng chật hẹp và bao biện; tránh lạm dụng hình phạt, thích bắt bớ lung tung, tịch thu vô lý và thiếu khoan dung; kỷ luật không nghiêm; dễ bị hủ hóa.
Bác cũng dặn dò ân cần với các đồng chí ở tỉnh nhà là “trong công tác có vấn đề gì khó giải quyết, các đồng chí cứ viết thư thảo luận với tôi. Tôi rất sẵn sàng giúp ý kiến”. Đến bức thư cuối cùng gửi về quê ngày 21/7/1969, Bác cũng căn dặn các cán bộ trong Ban Chấp hành Đảng bộ Nghệ An phải tập trung vào 4 nhiệm vụ cấp bách lúc đó:
1. Tích cực thực hiện dân chủ với nhân dân hơn nữa, trong tất cả các công việc phải để mọi người cùng tham gia góp ý và làm người kiểm tra quá trình thực thi.
2. Khôi phục và phát triển kinh tế từ nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp, thủ công nghiệp, góp phần lớn hơn vào việc phục vụ kháng chiến.
3. Hết sức chăm lo cho đời sống nhân dân, không để dân mệt mỏi, chán nản vì cuộc kháng chiến chống Mỹ còn trường kỳ.
4. Luôn luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cho đến khi cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Cũng trong bức thư này, Bác gửi gắm một tâm nguyện giản đơn: “Nghệ An là một tỉnh rộng lớn, có tài nguyên phong phú, có nhân dân cần cù lao động và rất cách mạng. Rất mong đồng bào và đồng chí tỉnh nhà ra sức phấn đấu làm cho Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá nhất ở miền Bắc”.
Đã gần nửa thế kỷ ngày Bác Hồ “về với thế giới người hiền”, và cũng từng ấy thời gian kể từ khi quê nhà được nhận bức thư cuối cùng của Bác. Người dân Nghệ An đã không ngừng phấn đấu vươn lên, góp phần vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi cuối cùng như Bác mong muốn.
Giờ nhìn lại, Nghệ An đã có nhiều thay đổi. Đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa tỉnh nhà đã phát triển hơn trước nhiều lần. Cơ sở hạ tầng được xây dựng, phố thị to lớn, nhà cửa khang trang, đường sá sạch sẽ... Người dân no ấm hơn, đầy đủ hơn. Đó là một thể hiện thiết thực cho sự kính trọng mà cán bộ và nhân dân quê nhà dành cho Bác.
Sỹ Hào