(Baonghean) Trúng phong, cấm khẩu, hôn mê, bất tỉnh: Dùng quả bồ kết (cả hạt) đốt cháy, tán bột (có thể phối hợp với bạc hà), lấy một ít thổi vào lỗ mũi cho hắt hơi và xát một ít vào chân răng sẽ tỉnh.
Co giật, kinh giản, đờm ngược lên nghẹt cổ, miệng sùi đờm rãi, hoặc hen suyễn, đờm kéo lên khò khè khó thở: Dùng bột bồ kết đốt tồn tính và phèn phi lượng bằng nhau, trộn đều, hòa vào nước cho uống mỗi lần 0,5g, ngày uống 3-6g cho đến khi nôn đờm ra hoặc hạ đờm xuống được thì thôi.
Bí đại tiện, tắc ruột hoặc bụng trướng sau mổ không trung tiện được, hoặc phù ứ nước: Dùng bồ kết đốt tồn tính tán bột, trộn với dầu lạc hoặc dầu vừng tẩm vào bông để vào trong hậu môn, làm vài lần sẽ trung tiện được và thông đại tiện.
Giun kim: Làm như trên vào buổi tối, liên tiếp 3 ngày, mỗi ngày một lần.
Sâu răng, nhức răng: Quả tán nhỏ, đắp vào chân răng, nếu chảy nước dãi thì nhổ đi; hoặc dùng bột bồ kết đốt tồn tính xỉa vào chân răng.
Lở ngứa do nấm, trẻ em chốc đầu: Ngâm bồ kết vào nước nóng rửa sạch chỗ tổn thương. Sau đó lấy bột bồ kết đã đốt tồn tính tán bột rắc vào.
Lỵ lâu ngày: Hạt bồ kết sao vàng tán nhỏ, dùng bột nếp nấu thành hồ, viên lại bằng hạt ngô. Dùng 10-20 viên/ngày, uống với nước chè đặc (nên uống vào sáng sớm tránh mất ngủ).
Trị ho: Bồ kết 1g, quế chi 1g, đại táo 4g, cam thảo 2g, sinh khương 2g, thêm nước khoảng 600ml, sắc còn 200 ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Mụn nhọt bọc không vỡ mủ: Gai bồ kết 5-10g nấu nước uống. Có thể phối hợp gai bồ kết với kim ngân hoa, cam thảo, mỗi vị 2-8g, sắc nước uống. Dân gian còn có kinh nghiệm dùng gai bồ kết và quả bồ hòn đốt thành than, tán bột mịn, trộn với bồ hóng và nhựa thông làm cao dán nhọt cho rút mủ rất tốt.
Chú ý: Người suy nhược, phụ nữ có thai không nên dùng bồ kết để uống.