Đến 2020, 70% dân số trưởng thành có tài khoản tại các ngân hàng; có ít nhất 20 chi nhánh, phòng giao dịch/100.000 dân số trưởng thành; có khoảng 30.000 máy ATM (40 máy/100.000 dân số trưởng thành); 300.000 POS (400 POS/100.000 dân số trưởng thành); có khoảng 15% số chi nhánh, phòng giao dịch của ngân hàng thương mại mở tại địa bàn nông thôn; khoảng 35-40% người trưởng thành ở nông thôn có tiết kiệm tổ chức tín dụng...
Đó là những mục tiêu trong “Đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế” của Ngân hàng Nhà nước.
» Ôm nợ ngân hàng để mua nhà hay suốt đời ở trọ?
Theo đó, toàn hệ thống ngân hàng hiện đã có 9.787 chi nhánh, phòng giao dịch; 16.937 ATM, 222.831 POS; trên 60 tổ chức tín dụng áp dụng Internet banking; 35 tổ chức tín dụng đã sử dụng mobile banking.
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam, theo đánh giá, đã phát triển đa dạng phong phú, có sản phẩm đã bắt kịp trình độ hiện đại của thế giới.
Kết quả chung, toàn hệ thống đã có nguồn vốn trên 6 triệu tỷ đồng, bằng 144% GDP; dư nợ 4,66 triệu tỷ đồng, bằng 111% GDP, tính đến cuối năm 2015.
Cũng tính đến cuối năm 2015, toàn hệ thống đã có 99,52 triệu thẻ, với giá trị giao dịch qua thẻ 230,6 nghìn tỷ đồng; 37/44 ngân hàng thương mại đã triển khai ví điện tử; quản lý tài sản, tư vấn tài chính đã bước đầu phát triển.
Chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng đã được cải thiện, hiện đại, tiện ích, giảm thủ tục và chi phí giao dịch, đã có những sản phẩm dịch vụ ngân hàng tự động 24/24 giờ.
Mức độ sử dụng dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam cũng đã gia tăng mạnh, trong đó tài khoản cá nhân tăng mạnh với 36,77 triệu tài khoản cuối năm 2015, gấp 15 lần năm 2004.
20,67% người trưởng thành khu vực nông thôn có khoản vay ở tổ chức tài chính; thanh toán qua Internet gia tăng 30-50%/năm, hiện có khoảng 2 triệu khách hàng sử dụng dịch vụ này; thanh toán qua điện thoại di động đạt khoảng 700 ngàn đồng/người/tháng.
Sự phát triển và mở rộng các dịch vụ ngân hàng, cùng mức độ sử dụng dịch vụ gia tăng như trên đã giúp giảm tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán từ 18% (2005) xuống khoảng 11% hiện nay.
Tuy nhiên, theo đánh giá tại hội nghị trên, hiện còn những khó khăn mà hệ thống ngân hàng cần cải thiện.
Đó là tỷ lệ thu phí dịch vụ phi tín dụng còn khiêm tốn; gánh nặng cung ứng vốn cho nền kinh tế vẫn dồn lên vai hệ thống ngân hàng cần phải được san sẻ từ thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm; mức độ tiếp cận dịch vụ của dân cư và doanh nghiệp chưa đồng đều theo khu vực địa lý cũng như quy mô kinh doanh.
Theo đó, đề án nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế mà Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành đã xác định 8 mục tiêu cụ thể cần đạt được đến năm 2020.
Đó là đến 2020, 70% dân số trưởng thành có tài khoản tại các ngân hàng; có ít nhất 20 chi nhánh, phòng giao dịch/100.000 dân số trưởng thành; có khoảng 30.000 máy ATM (40 máy/100.000 dân số trưởng thành); 300.000 POS (400 POS/100.000 dân số trưởng thành); có khoảng 15% số chi nhánh, phòng giao dịch của ngân hàng thương mại mở tại địa bàn nông thôn; khoảng 35-40% người trưởng thành ở nông thôn có tiết kiệm tổ chức tín dụng.
Và hai mục tiêu lớn nữa là đến 2020, có khoảng 50-60% doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động tiếp cận tín dụng; các tổ chức tín dụng tăng được gấp 2 lần tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng.
Theo Hải Vân/vneconomy