(Baonghean) - Bộ Tài chính cho biết, mặc dù chỉ số nợ công vẫn đang trong tầm kiểm soát, nhưng vấn đề quan trọng đặt ra trong điều kiện hiện nay là tốc độ nợ công đang tăng nhanh (từ 50,7% năm 2010 lên 62,2% năm 2015) và tiệm cận giới hạn cho phép. Dù xuất phát chủ yếu từ áp lực huy động vốn vay cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng hoạt động SX-KD của doanh nghiệp tăng mạnh nhưng cũng cần những giải pháp cụ thể để không “vỡ trần” nợ công.
Khối lượng huy động tăng nhanh
Với khối lượng giải ngân nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài được đẩy mạnh, giai đoạn 2011 - 2015, số vốn vay đã đạt 27,8 tỷ USD, gấp 3,5 lần giai đoạn 2001 - 2005 và gấp 2 lần so với giai đoạn 2006 - 2010. Tuy nhiên, khối lượng huy động vốn trong nước tăng nhanh so với giai đoạn trước, bình quân 34%/năm, vượt khả năng cung về vốn trung và dài hạn trên thị trường vốn trong nước, từ đó dẫn đến việc phải huy động vốn với kỳ hạn ngắn cho đầu tư dài hạn.
Giai đoạn 2011 - 2015 đã phát hành hơn 927 nghìn tỷ đồng, gấp khoảng 3,8 lần so với giai đoạn 2006 - 2010, bình quân tăng 34%/năm; trong đó riêng phát hành TPCP cho các dự án giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục... theo các nghị quyết của quốc gia giai đoạn 2011 - 2015 là 335 nghìn tỷ đồng, gấp 18,4 lần so với giai đoạn 2003 - 2005, và gần 2 lần so với giai đoạn 2006 - 2010. |
Bộ Tài chính cho biết, trong trường hợp nhu cầu huy động thông qua phát hành TPCP trung - dài hạn vượt quá khả năng cung ứng vốn của thị trường này, Chính phủ có thể sẽ phải chuyển sang huy động ngắn hạn hoặc các kênh huy động khác với chi phí huy động cao hơn.
Quy mô bảo lãnh Chính phủ cũng tăng mạnh khi tổng vay được bảo lãnh Chính phủ giai đoạn 2011 - 2015 đạt hơn 488 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3 lần so với giai đoạn 2006 - 2010. Ngoài ra, bối cảnh kinh tế không thuận lợi, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn đạt 5,9%/năm, không đạt mục tiêu 6,5 - 7%/năm.
Bên cạnh đó, chi phí huy động vốn có xu hướng tăng khi Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Từ khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2009 đã có sự thay đổi đáng kể về điều kiện vay vốn nước ngoài theo hướng giảm kỳ hạn từ 10 - 15 năm chi phí huy động vốn tăng gấp đôi so với trước đây.
Nhiều khoản vay ODA, vay ưu đãi với điều kiện ràng buộc từ bên ngoài làm chi phí đầu vào cao, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ trong các trường hợp dự án được vay lại nguồn vốn vay ODA của Chính phủ. Việc huy động, sử dụng vốn vay còn dàn trải, vẫn còn tư tưởng dựa vào sự bao cấp của Nhà nước nên phê duyệt quá nhiều dự án, tình trạng điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu, điều chỉnh các hợp đồng diễn ra khá phổ biến, tổ chức thực hiện một số dự án còn bất cập, nhất là khâu chuẩn bị đầu tư, thẩm định, phê duyệt lựa chọn nhà thầu, công tác đền bù, di dân giải phóng mặt bằng. Một số dự án đầu tư không trả được nợ, phải tái cơ cấu tài chính hoặc chuyển sang cơ chế nhà nước đầu tư, làm tăng nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ.
Ngoài các thực trạng trên, việc các công cụ quản lý nợ còn thiếu, chưa đảm bảo chủ động; việc xây dựng, triển khai các công cụ nợ còn mang tính bị động, chưa gắn kết chặt chẽ với kế hoạch tài chính - ngân sách và đầu tư công trung hạn cũng là những “điểm đen” trong quản lý nợ công.
Đồng thời, việc chưa có các chế tài để đảm bảo việc tuân thủ khiến trong nhiều trường hợp, huy động vốn vay thoát ly kế hoạch đã được phê duyệt dẫn đến hiệu quả, hiệu lực của các công cụ quản lý nợ còn thấp; việc chưa có quy định phù hợp về thẩm quyền và công cụ kiểm soát và phòng ngừa rủi ro nợ (như các sản phẩm phái sinh) mà mới chỉ quy định vay để cơ cấu lại danh mục nợ, là phạm vi hẹp so với nghiệp vụ quản lý nợ chuyên nghiệp trên thế giới… cũng rất đáng lưu tâm.
Hơn nữa, còn có một số quy định cũng làm hạn chế tính chủ động, linh hoạt của Chính phủ, Bộ Tài chính trong quản lý nợ công để đạt được mục tiêu hiệu quả dài hạn, đặc biệt để xử lý rủi ro tái cấp vốn. Việc thiếu các công cụ phòng ngừa, kiểm soát rủi ro dẫn đến công tác xử lý các rủi ro các khoản nợ còn bị động, không phù hợp với diễn biến thị trường vốn luôn biến động, làm mất cơ hội thực hiện nghiệp vụ xử lý rủi ro mà có thể đem lại lợi ích đáng kể cho quốc gia.
Công tác quản lý nợ công còn phân tán, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương gây khó khăn cho việc thống nhất quản lý nợ công, chủ động trả nợ, giám sát và kiểm soát rủi ro các chỉ tiêu an toàn nợ công theo quy định của pháp luật.
Nhiều chính sách quản lý nợ công, hạn chế rui ro
Thời gian tới, áp lực vốn đầu tư phát triển KT-XH rất lớn, nợ công đang ở mức cao, nghĩa vụ trả nợ có xu hướng gia tăng. Vì vậy, cần có các nhóm giải pháp nhằm mục tiêu đáp ứng nhu cầu vốn của Chính phủ, đảm bảo khả năng trả nợ, đạt được chi phí thấp gắn liền với mức độ rủi ro hợp lý, đồng thời thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước, từng bước tái cơ cấu nợ công và đảm bảo an toàn về nợ công và an ninh tài chính quốc gia.
Theo đó, việc tập trung kiểm soát các chỉ số nợ trong giới hạn cho phép phải được đặt lên hàng đầu, đảm bảo an toàn nợ công và an ninh tài chính quốc gia. Để làm được như vậy, có nhiều giải pháp cụ thể, trong đó thực hiện lộ trình giảm dần bội chi, phấn đấu duy trì mức bội chi NSNN bình quân giai đoạn 2016 - 2020 khoảng 4% GDP.
Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, đầu tư công và quản lý nợ công; giảm tỷ lệ vốn đầu tư của Nhà nước theo hướng tập trung vào các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, có tác dụng lan tỏa. Tiếp tục siết chặt bảo lãnh Chính phủ, chuyển sang cơ chế vay trả nợ theo nguyên tắc thị trường.
Tăng cường phát triển thị trường vốn trong nước cả về chiều rộng lẫn chiều sâu nhằm đa dạng hóa kỳ hạn phát hành, tập trung phát hành TPCP kỳ hạn từ 5 năm trở lên, phấn đấu kéo dài kỳ hạn bình quân danh mục nợ trái phiếu Chính phủ 2016 - 2020 lên 6 - 8 năm, đảm bảo huy động vốn phù hợp với khả năng hấp thụ và nhu cầu của thị trường.
Tiếp tục đẩy mạnh tiến độ giải ngân số vốn ODA đã ký kết đối với các chương trình, dự án chuyển tiếp, đẩy mạnh công tác chuẩn bị dự án ODA mới. Nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công, hạn chế đầu tư dàn trải, tập trung vào các chương trình dự án có hiệu quả cả về kinh tế và ưu tiên dự án có khả năng trả nợ. Quản lý chặt chẽ nợ công, nhất là các khoản vay mới. Gắn trách nhiệm bộ, ngành, địa phương trong sử dụng vốn vay theo hướng đẩy mạnh cơ chế cho vay lại, giảm dần tỷ lệ cấp phát và thu hồi nợ đối với các khoản Chính phủ vay về cho vay lại.
Đối với chi ĐTPT, phân bổ tập trung, ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng trọng điểm của đất nước. Thúc đẩy mạnh mẽ kêu gọi hợp tác theo hình thức công - tư (PPP) và các hình thức đầu tư không sử dụng vốn NSNN. Đối với chi thường xuyên, bố trí trên tinh thần triệt để tiết kiệm, đảm bảo thực hiện các chính sách an sinh xã hội đã được cấp có thẩm quyền quyết định; tiết kiệm các khoản chi cho bộ máy quản lý nhà nước, sự nghiệp công. Phát triển công cụ quản lý rủi ro; chủ động, linh hoạt lựa chọn trong đa dạng các công cụ nợ gắn liền với các đặc điểm chi phí - rủi ro khác nhau để phù hợp với diễn biến thị trường luôn biến động…
Ở Nghệ An: Vốn đầu tư công được giao kế hoạch năm 2016 là 4.601.461 triệu đồng, đến 30/6 khối lượng đã thực hiện 1.999.219 triệu đồng, đạt 43,5%, giải ngân 1.924.100 triệu đồng. Theo ông Nguyễn Văn Độ - Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, nợ công ở Nghệ An hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát. |
Hồng Hà