“Nếu chuẩn bị thật nghiêm túc từ bây giờ, chúng ta vẫn phải mất thêm chục năm nữa để có những hoạt động khảo cổ biển theo đúng nghĩa”- đặt trong sự đối chiếu với những gì đang được Trung Quốc triển khai ở lĩnh vực này, chia sẻ của TS Nguyễn Tiến Đông càng khiến nhiều người... sốt ruột.
1.Thực tế, với giới chuyên môn, bài toán phát triển khảo cổ biển, đảo Việt Nam đã được đặt ra từ nhiều năm, trước khi Trung Quốc tiến hành một số đợt khảo cổ trái phép quanh quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và tuyên bố xin đăng ký danh hiệu Di sản Thế giới cho “con đường tơ lụa biển Đông” ở thời điểm giữa 2014.
Ở nhiều Hội nghị thường niên của ngành, "khoảng trống" về nhân lực, phương tiện, công nghệ... của khảo cổ dưới nước vẫn liên tục được nhắc tới. Nhưng phải tới năm 2013, với việc thành lập Phòng Khảo cổ học dưới nước tại Viện Khảo cổ Việt Nam, chuyên ngành này mới thoát khỏi tình trạng "ba không" (không chuyên gia, không máy móc và không kinh phí).
Gắn với biển đảo, những thành tựu khảo cổ học nổi bật nhất của Việt Nam trong thời gian qua chủ yếu vẫn là các đợt trục vớt cổ vật của xác tàu đắm tại Sa Huỳnh, Cù Lao Chàm, Vũng Tàu... và việc tìm thấy hàng loạt di vật thời Lê, Nguyễn tại các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc trục vớt cổ vật hầu hết đều thực hiện theo hình thức liên kết và sử dụng kỹ thuật, kinh phí của đối tác (đa phần là các công ty nước ngoài). Còn lại, việc khai quật tại các đảo vẫn chỉ được tiến hành trên phần đất liền.
"Với gần 1 triệu km2 mặt biển, tiềm năng của khảo cổ biển đảo Việt Nam là vô cùng lớn" - TS Lâm Mỹ Dung (ĐH Quốc gia HN) - chia sẻ. "Tuy nhiên, với một quốc gia đang phát triển, khó khăn chính của chúng ta là những đòi hỏi đầu tư khổng lồ về kỹ thuật, phương tiện và đào tạo chuyên gia trong lĩnh vực này". Trong khi đó, chi phí cho khảo cổ học dưới nước gấp khoảng 6 lần so với khảo cổ tương tự trên đất liền.
Được biết, từ khi thành lập đến nay, Phòng Khảo cổ học dưới nước của Viện Khảo cổ học Việt Nam vẫn chưa được trang bị bất kỳ thiết bị gì, cũng như không có bất cứ nguồn kinh phí thường niên nào để tiến hành các hoạt động khảo sát, nghiên cứu dưới nước.
2. Đặt trong bối cảnh ấy, các bước đi trong lĩnh vực khảo cổ biển đảo của Trung Quốc lại càng khiến những chuyên gia Việt Nam lo lắng và quan ngại. Cụ thể đến nay, quốc gia này đã có đội ngũ 710 chuyên gia lặn, đã thành lập bảo tàng Con đường Tơ lụa trên biển Quảng Đông, đã có các cơ quan nghiên cứu đặc thù tại 10 tỉnh ven biển.
Đặc biệt, theo TS Trương Minh Huy Vũ (Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP.HCM), tất cả các kết quả nghiên cứu đều được truyền thông theo hướng phục vụ cho những lập luận nhằm thiết lập cái gọi là "Di sản Con đường Tơ lụa trên biển" bao trùm phần lớn biển Đông.
"Trong bối cảnh này, có lẽ chúng ta rất nên chú trọng tới việc liên kết với nhiều quốc gia khác để đưa ra những nghiên cứu chính xác, nhằm tạo sự cân bằng khách quan trong học thuật" - TS Vũ nói.
Theo TS Lê Thị Liên (Viện Khảo cổ học), để có một trung tâm khảo cổ học dưới nước hiệu quả, các học giả quốc tế đã tư vấn giải pháp trước mắt: Việt Nam cần tổ chức đào tạo bài bản và đưa đi tập huấn thường xuyên tại nước ngoài để sớm có được những chuyên gia ở trình độ đại học, hoặc sau đại học về khảo cổ dưới nước. Có nghĩa, không thể muộn hơn nữa, một kế hoạch về thời gian, kinh phí, con người và bộ máy vận hành cần được xây dựng ngay. Ngành khảo cổ học biển đảo của Việt Nam cần sớm vượt qua giai đoạn "khởi động" để bắt đầu lộ trình của mình.
Theo thethaovanhoa.vn