Hỏi: Tôi làm việc trong ngành Xây dựng. Khi tôi nộp hồ sơ xin việc công ty có yêu cầu nộp chứng chỉ hành nghề kỹ sư bản gốc. Tuy nhiên, sau 2 năm làm việc, khi tôi xin nghỉ việc công ty lại chưa trả lại giấy tờ cho tôi. Xin quý luật sư và chuyên mục tư vấn pháp luật tư vấn giúp tôi cách giải quyết sự việc trên.
Trả lời:Theo quy định tại Khoản 2, Điều 47, Bộ luật Lao động năm 2012 có hiệu lực kể từ ngày 1/5/2013, trong thời hạn 7 ngày làm việc từ khi chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.
Tại Khoản 3, điều này còn quy định: “Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động”.
Như vậy, nếu đã quá 30 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động mà công ty vẫn chưa trả cho bạn các giấy tờ nói trên là trái với quy định của Bộ luật Lao động. Trường hợp công ty vẫn cố tình không giải quyết thì bạn có thể khởi kiện vụ án lao động đến tòa án cấp huyện nơi doanh nghiệp có trụ sở.
Về việc giữ chứng chỉ, văn bằng, theo quy định tại Điều 20, Bộ luật Lao động, người sử dụng lao động không được có những hành vi sau đây khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động:
1. Giữ bản chính giấy tờ tuỳ thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động.
2. Yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động.
Theo quy định tại Điều 5, Nghị định 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, người sử dụng lao động sẽ bị xử phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với có một trong các hành vi sau đây:
a) Giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động;
b) Buộc người lao động thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động.
Ngoài mức phạt tiền nói trên, người sử dụng lao động còn bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc phải trả lại bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ đã giữ của người lao động.
Hỏi: Tôi làm việc cho 1 công ty tư nhân, hiện đã đóng bảo hiểm xã hội được gần 2 năm. Mới đây vì sự cố nên tôi bị sẩy thai. Vậy, tôi có được bảo hiểm thanh toán không?
Trả lời: Theo Điều 30, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 quy định về thời gian hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu như sau: “Khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu thì lao động nữ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản 10 ngày nếu thai dưới 1 tháng; 20 ngày nếu thai từ 1 tháng đến dưới 3 tháng; 40 ngày nếu thai từ 3 tháng đến dưới 6 tháng; 50 ngày nếu thai từ 6 tháng trở lên”.
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại Điều này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.
Đồng thời, Điều 35 Luật Bảo hiểm xã hội cũng quy định về mức hưởng chế độ thai sản như sau:
“1. Người lao động hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 29, 30, 31, 32 và 33 của luật này thì mức hưởng bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc.
2. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian này người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng bảo hiểm xã hội”.
Theo các quy định nêu trên bạn sẽ được nghỉ 20 ngày, trong đó bao gồm cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết và ngày nghỉ hàng tuần. Bạn sẽ được trả tiền lương cho 20 ngày này với mức bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc.
Phòng Bạn đọc