(Baonghean) - Lên miền Tây Nghệ An, thật dễ dàng bắt gặp những hàng cọ mát xanh. Nhưng đặc sắc và hấp dẫn hơn cả có lẽ là rừng cọ tự nhiên ở bản Nậm Khiên (Nậm Càn, Kỳ Sơn).

Vào rừng cọ lớn nhất nơi đại ngàn

Nậm Khiên là bản ở thấp nhất trong các bản của người Mông mà chúng tôi thường thấy, vì thế đây cũng là bản có khí hậu nóng nhất ở vùng biên viễn này. Có lẽ vì thế, đất trời lại ban cho người dân Nậm Khiên những rừng cọ rộng lớn từ đời này qua đời khác để xua dịu đi những oi bức của ngày hè nắng nóng.

Xanh mát rừng cọ ở Nậm Khiên
Xanh mát rừng cọ ở Nậm Khiên

Tiếp chúng tôi trong căn nhà lợp bằng gỗ sa mu truyền thống của người Mông, ông Lầu Nhìa Xồng – Trưởng bản Nậm Khiên 1 hồ hởi bảo rằng: “Người dân Nậm Khiên dời từ đỉnh núi Pu Liên về chốn này đã hơn 20 năm nhưng những rừng cọ ở đây thì gắn bó với chúng tôi từ nhiều đời nay rồi. Ông bà, bố mẹ chúng tôi kể lại rằng, rừng cọ có từ khi người Mông chưa về định cư lập nghiệp ở rừng núi này. Có những cây tuổi đời còn hơn cả tuổi bố mẹ tôi đấy. Cây già chết đi, cây con lại mọc lên, cứ thế đời này sang đời khác thôi”

Tính cả 2 bản Nậm Khiên 1 và Nậm Khiên 2 (từ năm 2012, bản Nậm Khiên được tách ra thành Nậm Khiên 1 và Nậm Khiên 2) hiện nay có 3 rừng cọ. Nhưng rừng cọ lớn nhất phải nói đến là rừng cọ thuộc bản Nậm Khiên 2.

Trong sáng sớm mùa thu, dưới làn sương mờ ảo, từng chùm cọ trĩu quả đang dần dần hiện ra rõ nét. Quả thực nếu không có chút ánh sáng mặt trời trong sương sớm có lẽ chúng tôi không thể nào nhận ra được lối đi. Từng tán cọ xòe ra che kín cả một vùng trời. Già bản Lầu Xái Phia bảo rằng, những rừng cọ khác đều có thể tính được số cây nhưng rừng cọ này thì chưa ai đếm xuể. Với diện tích gần 3 ha, rừng cọ Nậm Khiên được xem là rừng cọ lớn nhất trên khu vực vùng biên này.

Dẫn chúng tôi tản bộ trong rừng cọ, anh Lầu Nỏ Súa (bản Nậm Khiên 2) tâm sự: “Chúng tôi sinh ra và lớn lên ở đây nhưng để đi hết rừng cọ này cũng phải mất nhiều thời gian lắm. Các cụ kể lại rằng, ngày chưa về đây thành lập bản, rừng cọ này âm u lắm. Có nhiều người không dám vào đó đâu, bởi vì vào đó tối đen như mực không biết lối nào để ra cả. Người nào vào cũng phải mang theo bó đuốc hoặc cái đèn pin. Sau này, bản huy động thanh niên trai tráng mang theo dao vào phát quang rừng cọ mới được như ngày hôm nay đấy”. Cũng theo lời anh, bây giờ rừng cọ này được phân chia cho 10 hộ gia đình quản lý. Công sức chẳng tốn là bao nhưng quản lý như thế là để mọi người cùng có trách nhiệm giữ gìn và chăm sóc cho cọ.

Thức quà của rừng xanh

Anh Lầu Bá Súa đi cùng chúng tôi nói rằng, đã bao đời người đi qua nhưng rừng cọ này vẫn là một phần không thể thiếu trong đời sống của nhân dân bản Nậm Khiên. Những ngày mưa ngày nắng, khi cái chuồng trâu, chuồng bò chưa làm xong, bà con thường đưa trâu bò ra đây để chúng nghỉ ngơi. “Ngày trước, khi dân bản còn nghèo, cây gỗ sa mu trên rừng còn khó đưa về, người dân chúng tôi phải rủ nhau vào đây lấy lá cọ về lợp nhà để ở. Bây giờ đời sống đã khá hơn nhiều rồi, nhiều gia đình đã có nhà mái tôn, mái ngói nhưng chúng tôi vẫn dùng lá cọ để lợp cái nhà bếp, cái chuồng cho trâu bò ở” – anh Súa cho biết thêm.

Người dân thường buộc trâu, bò dưới tán lạ cọ để chúng nghỉ ngơi và tránh nắng

Quả thực như vậy, trên đường đi về bản, chúng tôi đã gặp rất nhiều người mang “trá khí” (dụng cụ dùng để gùi của người Mông) trên lưng những bó lá cọ lớn. Loài cọ có đặc điểm, càng chặt lá, cây càng cao thêm và ra lá mùa sau nhanh như thổi. Do vậy, bà con nơi đây chặt về sử dụng cũng là một cách để phát quang cho cây.

Những lần lên rẫy hay đi xa của người Mông, trong hành trang của họ có một thứ không thể thiếu là cơm và thức ăn đựng sẵn trong lá cọ. Theo kinh nghiệm của các cụ cao tuổi trong bản thì thức ăn được gói trong lá cọ sẽ giữ được lâu hơn và có mùi vị thơm hơn. Chắc hẳn đó là kinh nghiệm của những người đã gắn bó cuộc đời mình với núi rừng này.

Lá cọ được người dân lấy về lợp mái nhà

Trước lúc rời rừng cọ, anh Lầu Bá Súa còn tranh thủ hái ít cọ về ăn. Anh chọn những cây có tán lá tròn, rộng để hái quả. Anh Súa bảo: “Cọ cũng có 2 loại, loại cây tán lá nhỏ thì quả nó mu sẽ mỏng và ăn có vị đắng hơn. Còn loại tán lá to thì quả có mu dày và ăn ngọt, thơm hơn”.

Những quả cọ được anh đưa về bỏ vào một nồi nước nóng đã chuẩn bị sẵn. Theo anh Súa, khi om cọ, nếu nước nguội quá cọ sẽ không chín, còn nóng quá sẽ làm cho quả mềm nhũn không ngon. Do đó, người om cần biết nhiệt độ nước và thời gian om để quả cọ khi vớt ra ăn vừa ngon. Sau 10 phút, anh vớt cọ ra, chúng tôi ngồi thưởng thức một cách ngon lành.

Những ngày đầu mùa cọ, khắp các ngả bản Nậm Khiên đông vui như ngày hội. Những người dân Thái ở các bản lân cận như Xoóng Con, Lưu Phong (Lưu Kiền, Tương Dương) vào đây mua cọ về ăn. Cọ ở đây nhiều không xuể, nói là bán chứ chủ yếu là cho nhau làm quà. Mỗi kg có giá 5 nghìn đồng nhưng mấy khi bà con lấy tiền. Theo lời anh Súa có những cây cọ cho thu hoạch đến trên 20 kg quả mỗi mùa. Những quả chưa thu hoạch kịp rụng xuống, cây non lại mọc lên, cứ thế đời này qua đời khác.

                                                                                                                                         Bài, ảnh: Đào Thọ

TIN LIÊN QUAN