Thời bao cấp, người dân đi khám chữa bệnh hay mua thuốc rồi mang hóa đơn về cơ quan hay bệnh viện thanh toán mà không mất tiền, song điều kiện chữa trị vô cùng thiếu thốn.
Bệnh nhẹ như cảm cúm, ho, đau đầu…, người dân tự bỏ tiền ra mua thuốc ở bên ngoài (được gọi là các loại thuốc thông thường). Các loại thuốc tối cấp, thiết yếu thường phải có đơn bác sĩ. Hệ thống y tế gồm trạm y tế, bệnh viện tuyến huyện và phòng khám khu vực, bệnh viện tuyến tỉnh và trung ương. Trạm y tế xã chủ yếu có một y sĩ chung, một y sĩ sản nhi và một lương y; lên huyện thường là các trường hợp cấp cứu, mổ xẻ...
Ông Nguyễn Hậu (Đống Đa, Hà Nội) kể lại, nếu là cán bộ, công nhân viên đi khám bệnh chỉ cần xin giấy giới thiệu của y tế cơ quan, đến khám tại bệnh viện hoặc phòng khám nào đó, sau đó tự đi mua thuốc, đem hóa đơn về cơ quan sẽ thanh toán. Nếu là dân thường thì xin giấy giới thiệu ở xã hoặc phường rồi theo trình tự như trên. Trường hợp phải nằm viện chỉ việc ký vào một số giấy tờ để bệnh viện quyết toán với cấp trên.
Bệnh viện thời bao cấp
Bao cấp nhưng trong bối cảnh tiền Nhà nước không nhiều, sản xuất không phát triển nên bệnh viện gặp vô vàn khó khăn. Từng làm phòng thư ký tổng hợp từ thời cố Bộ trưởng Đặng Hồi Xuân trong các năm 1982-1988, sau đó là thư ký cho cố Bộ trưởng Phạm Song trong giai đoạn 1988-1992, ông Hoàng Trọng Quang vẫn nhớ như in những khó khăn của ngành y lúc đó.
Ông kể lại khi đó, các loại thuốc men, trang thiết bị y tế… chủ yếu được viện trợ. Bộ Y tế có cả Vụ kế hoạch, Cục Vật tư làm nhiệm vụ phân chỉ tiêu cho các bệnh viện. Ví dụ Bệnh viện Bạch Mai một năm được cấp bao nhiêu cái chiếu, chăn, đường, sữa, xăng dầu, thuốc men…
Các bệnh viện ngày xưa bé, chủ yếu kiểu nhà một tầng, chỗ gọi là "xịn" nhất là 3 tầng. Phòng ốc đơn giản nhưng rất ít có chuyện nằm ghép. Bác sĩ khám cũng mặc áo blouse, đeo tai nghe, máy đo huyết áp… Đèn phẫu thuật thì có đèn măng xông sáng choang, dĩ nhiên là không bằng đèn điện, cũng gây tê gây mê, sát trùng cồn, đốt, luộc; dao mổ được viện trợ cả bộ tiểu phẫu, bộ đại phẫu.
Tuy nhiên, trang thiết bị y tế thô sơ, cồng kềnh. Máy X-quang cũ rích, to đùng. Đơn giản như việc đếm hồng cầu cũng làm rất thủ công là dùng mắt thường đếm, không có máy móc. Bác sĩ điều trị cho bệnh nhân dựa trên kinh nghiệm là chính.
Hồi đấy các thầy thuốc, kể cả ở Bệnh viện Việt Xô (bệnh viện chuyên chăm sóc sức khỏe cán bộ cấp cao) cũng nói đùa: “Anh hồng cầu 2,5 triệu thì cũng cấp cứu như anh 3,5 triệu”.
Việt Đức là bệnh viện đầu ngành, thế nhưng vào năm 1986 cả khoa gan mật có trăm bệnh nhân chỉ có 2 máy hút dịch là loại đạp chân. Máy hút điện thì to, hay mất điện nên cũng không dùng được nhiều. Hay như máy chụp CT scanner, chụp cộng hưởng từ MR được coi là “của hiếm” thời đó.
Ông Quang vẫn nhớ thời điểm năm 1990, ông có dịp đi cùng cố Bộ trưởng Phạm Song sang Pháp để tìm hiểu thì biết một máy CT scanner giá một triệu USD (bằng tiền xây cả 6 toà nhà 5 tầng công sở thời bấy giờ).
Thấy nước họ có máy chụp MR, cố Bộ trưởng Phạm Song hỏi có thể mua đặt về Việt Nam được không thì được khuyên đừng mua vì “máy cực kỳ đắt, cả nước Pháp thời kỳ đó cũng chỉ có 6 máy”. Máy CT scanner đầu tiên nước ta có được đặt tại Bệnh viện 108, trang bị cho tuyến đầu ngành để phục vụ công tác khám chữa bệnh.
Kháng sinh Tetracyclin - thế hệ răng đen
Trang thiết bị y tế cũ, thuốc men cũng thiếu thốn. Với nhiều người Việt Nam, thời đó có lẽ không ai là không biết đến kháng sinh tetracylin, bệnh gì cũng uống nóng sốt đau... Hậu quả là có cả một thế hệ răng bị đen.
Tetracyclin đã quý, các biệt dược như amoxicillin, ampicillin, penicillin hay lanhcosin (chữa lậu, giang mai) càng hiếm hơn, là những thứ rất cao cấp. Nhà nào kha khá một chút và có tý “quan hệ” mới dự trữ những được loại thuốc này. Thời đó dù đang làm ở Bộ Y tế, bản thân ông Quang cũng không dám mơ tưởng.
Tủ thuốc nhà nào được coi là “sang” thì có ít kháng sinh, thuốc đau dầu seda, cảm cúm, thuốc đau bụng; nếu không khi đau đầu, nhiều người chỉ cần nấu nồi nước xông, đau bụng có ngải cứu, sốt thì lá nhọ nồi. “Giờ nhìn lại có thể nói tetracycline là thứ thuốc vớ vẩn nhưng ngày xưa có đã là tốt lắm rồi.
Kháng sinh ngày xưa đúng nghĩa của để dành, có cất giữ. Cứ có thuốc là quý, trừ loại để mốc, ẩm cứ còn nguyên vẹn thì vẫn dùng được, chứ không để ý mấy đến hạn dùng”, ông Quang nói.
Thuốc Tây ít, hiếm nên thuốc nam thời đó rất phát triển. Tại xã, cán bộ y tế trồng, sản xuất và sử dụng thuốc nam nhiều. Công nghệ sản xuất hết sức đơn giản: lấy cây thuốc hương nhu, bạc hà tán ra, vo viên thành thuốc người dân uống. Huyện cũng cũng có thể pha chế dịch truyền để truyền: nước muối, đường, nước pha thuốc tiêm...
Bác sĩ cũng nuôi lợn, bóc lạc phụ thêm cuộc sống
Cũng giống bao nhiều người dân khi đó, cán bộ trong ngành y vừa làm cho Nhà nước cũng vừa phải bươn chải lo cuộc sống riêng: nuôi lợn, nuôi gà, làm những việc lao động thêm. Học Dược ra trường ông Quang được chọn về làm việc trong Bộ. Sáng ông đến đúng giờ làm việc, trưa mở cặp lồng cơm ra hâm nóng, ăn xong nghỉ tý, chiều ghi lên bảng đi cơ sở nhưng thực chất là đi xếp hàng mua gạo, dầu, tem phiếu, đón con…
Ông cũng phải nhận thêm việc bóc lạc, dán giấy kẹo, dán bao dầu con hổ, cao sao vàng… Thỉnh thoảng ngày thứ bảy vẫn phải đi làm nhưng ông xin phép nghỉ đi phơi, rửa, lọc dược liệu kiếm thêm tý tiền; còn phép thì xin nghỉ hoặc trốn việc đi làm thêm.
“Nói chung cuộc sống thời đó rất đơn giản. Cán bộ ngày xưa rất tốt. Có thể thời điểm đó ai cũng khó khăn, cũng nghèo như nhau; hơn nhau có khi chỉ là cái đài, xe máy không thì xe đạp, không có gì hơn. Cuộc sống giờ thì khác, giàu nghèo chênh nhau một trời một vực" ông Quang cho biết.
Cùng với sự chuyển mình chung của cả nước, ngành y tế từ sau năm 1986 cũng có những sự thay đổi đột phá. Tại một hội nghị y tế ở TP HCM vào tháng 11/1988, cố Bộ trưởng Phạm Song đưa ra 2 chủ trương lớn: cho khám chữa bệnh tư và cho mở cửa hàng dược tư. Điều này đã tháo gỡ cho người dân rất nhiều, mở ra cho ngành y tế một lối thoát.
Đến ngày 21/6/1989, cố Bộ trưởng tự viết bài về bảo hiểm y tế: thu một phần viện phí để tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Nó thực sự tạo nên chuyển đổi quan trọng mặc dù gây xáo động trong xã hội thời đó. Hải Phòng là địa phương xung phong thí điểm đầu tiên. Nhờ đó các bệnh viện dần có kinh phí.
Đến nay, bảo hiểm y tế vẫn được coi là “xương sống” của hệ thống y tế với mục tiêu là phải phổ cập được bảo hiểm y tế toàn dân. Đến nay nó là nguồn lực chủ yếu để phục vụ công tác khám chữa bệnh ngày càng ổn định và phát triển.
Theo VNE