Ảnh minh họa: Internet Theo thống kê về tuổi tác và giới tính, tỷ lệ mắc ung thư đại tràng và tử vong ở nam giới cao hơn so với phụ nữ, sự phân bố tuổi có tỷ lệ mắc tăng nhanh chóng trong khoảng 40-45 tuổi phát hiện bệnh, bùng phát hơn là nhóm 75-80 tuổi.
Vì vậy, các chuyên gia đề nghị, cách tốt nhất là người trên 40 tuổi nên khám nội soi ít nhất một lần. Nếu không có bất thường nào được phát hiện, có thể nên kiểm tra lại một lần nữa trong khoảng 5 năm sau đó.
Tỷ lệ tử vong của ung thư đại trực tràng cao, chủ yếu là do có quá nhiều chẩn đoán thiếu chính xác hoặc bỏ lỡ cơ hội chẩn đoán, dẫn tới việc khi phát hiện ung thư đại trực tràng thì đã ở giai đoạn muộn.
Có nhiều yếu tố nguy cơ khác nhau cho ung thư đại trực tràng và nguyên nhân rất phức tạp. Không dễ để ngăn ngừa nguyên nhân gây ra bệnh.
Dưới hình thức chiên, nướng, thịt xông khói, dăm bông, xúc xích, chất đạm sẽ làm tăng yếu tố sinh ung thư, còn mỡ sẽ bị chuyển hóa bởi vi khuẩn trong lòng ruột, làm tăng sản các tế bào biểu mô bất thường và phát triển thành ung thư. Ảnh minh họa: Internet
Ung thư đại tràng thường bắt đầu lành tính (gọi là polyp). Polyp không phải là u nhưng là một tổn thương có hình dạng giống như một khối u, có cuống hoặc không, do niêm mạc đại tràng và tổ chức dưới niêm mạc tăng sinh tạo thành. Polyp không phải là ung thư nhưng chúng có thể phát triển thành ung thư sau một thời gian dài.
Kiểm tra đại trực tràng thường xuyên là một trong những cách tốt nhất để phòng tránh ung thư. Polyp tiền ung thư thường không biểu hiện triệu chứng, có thể được tìm thấy qua nội soi đại tràng vài năm trước khi ung thư xâm lấn phát triển.
Kiểm tra sàng lọc cũng tìm thấy được polyp tiền ung thư và cắt bỏ trước khi nó trở thành ung thư. Đây được xem là cách phòng bệnh cụ thể nhất. Ung thư đại tràng có thể phòng tránh được thông qua thói quen ăn uống lành mạnh.
Có nhiều yếu tố nguy cơ mà mọi người có thể phòng tránh được như: Các loại thịt đỏ (thịt bò, thịt cừu) được xem là có liên quan mật thiết đến ung thư đại tràng. Ăn khoảng 160g/ngày hoặc chế độ ăn với thịt quá 5 lần/tuần có nguy cơ cao gấp 3 lần.
Dưới hình thức chiên, nướng, thịt xông khói, dăm bông, xúc xích, chất đạm sẽ làm tăng yếu tố sinh ung thư, còn mỡ sẽ bị chuyển hóa bởi vi khuẩn trong lòng ruột, làm tăng sản các tế bào biểu mô bất thường và phát triển thành ung thư.
Ăn nhiều thịt, mỡ, đạm, ít chất xơ dễ dẫn đến béo phì và có nguy cơ cao gây ung thư đại tràng, nên cần thay đổi chế độ ăn khoa học hơn để phòng bệnh.
Các thức ăn chứa nhiều chất xơ (rau xanh, trái cây) giúp làm giảm nguy cơ này vì chất xơ giúp gia tăng tiêu thụ acid folic, gia tăng kết hợp chất xơ với các yếu tố sinh ung thư dẫn đến việc loại khỏi lòng ruột sớm vì giảm thời gian ứ đọng phân.
Các thức ăn chứa nhiều chất xơ (rau xanh, trái cây) giúp làm giảm nguy cơ ung thư đại tràng. Ảnh minh họa: Internet
Ngoài ra, chất xơ làm giảm pH trong lòng đại tràng và tăng sản xuất các acid béo chuỗi ngắn và yếu tố vi lượng chống hiện tượng ôxy hóa.
Các loại nước uống chứa cồn làm tăng nguy cơ ung thư đại tràng.
Thuốc lá được biết đến như là những “sát thủ” của bệnh lý tim mạch hay ung thư phổi. Gần đây nó được công nhận là những yếu tố nguy cơ rất quan trọng gây ung thư đại tràng cho cả hai giới, nhất là khi kết hợp với rượu bia. Hoạt động thể lực, vận động hay luyện tập thể dục sẽ làm giảm nguy cơ mắc ung thư đại tràng.
Các loại hạt chống ung thư đại tràng cực tốt:
Nghiên cứu của ĐH Jena, Đức chỉ ra rằng ăn các loại hạt như hạt phỉ, quả óc chó, hạnh nhân và quả hồ trăn không chỉ góp phần vào chế độ ăn lành mạnh mà còn làm chậm sự phát triển của các tế bào ung thư và làm giảm nguy cơ ung thư đại tràng.
Ở nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu ảnh hưởng của 5 loại hạt: hạt mắc ca,hạt phỉ, quả óc chó, hạnh nhân và quả hồ trăn.
Các loại hạt được tiêu hóa một cách nhân tạo trong ống nghiệm và ảnh hưởng của các sản phẩm tiêu hóa lên các dòng tế bào sau đó được phân tích.
Các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng hoạt động của các enzym bảo vệ catalase và superoxide dismutase tăng ở những tế bào được điều trị. Ngoài ra, các sản phẩm tiêu hóa gây chết tế bào chương trình trong các tế bào ung thư