Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Cảnh Chân (1355-1409)
Ông sinh năm Ất Mùi (1355) trong một gia tộc họ Nguyễn, có nguồn gốc từ vùng Đông Triều – Quảng Ninh. Thân sinh của ông là Kim ngô vệ Đại tướng quân Nguyễn Đa Phương Anh hùng dân tộc thời hậu Trần. Các bậc tiên liệt và tiền bối của ông có truyền thống “Trung cần - Nhân nghĩa – Bảo quốc – Hộ dân” trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, nhiều người trở thành danh thần và đại thần khai quốc dưới các triều đại Đinh-Lê-Lý-Trần... cho đến thời đại Hồ Chí Minh được lịch sử lưu danh.
Dưới triều vua Trần Phế Đế (1377-1388)
Năm Giáp Tý (1384) Nguyễn Cảnh Chân thi đậu Tiến sỹ, khoa thi Thái học sinh dưới triều vua Trần Phế Đế - hiệu Xương Phù thứ 8 (Giản Hoàng). Năm Ất Sửu (1385) Nguyễn Cảnh Chân chính thức được bổ dụng làm quan trong “Thiềm sự khu Mật viện triều đình” nhà Trần.
Ngày 27 tháng 12 năm Mậu Thìn (1388), vua Trần Phế Đế nhường ngôi cho con út là Chiêu Định Vương Trần Ngung (được Lê Quý Ly gả con gái lớn làm vợ). Tháng 2 năm Kỷ Tỵ (1389) Trần Ngung chính thức lên ngôi xưng hiệu Trần Thuận Tông Hoàng Đế, đặt niên hiệu là Quang Thái và con gái ruột Lê Quý Ly được phong Hoàng hậu. Lê Quý Ly là ngoại tông nhà Trần, nên được Thượng hoàng Trần Nghệ Tông tin cẩn giao phụ chính vua Trần Thuận Tông.
Tháng 3 năm (1389), vua Trần Thuận Tông Hoàng đế phong Nguyễn Cảnh Chân là Đại tướng giữ chức “Tham mưu quân sự thuộcThiềm sự khu Mật viện triều đình”.
Tháng 4 năm đó, Lê Quý Ly tiến cử bổ dụng Phạm Cự Luận làm “Thiêm Thư khu Mật viện sự”. Lê Quy Ly hỏi Cự Luận: Trong Mật viện, những ai có thể dùng được ? Cự Luận bèn nêu tên một số người trong đó có em trai của ông là Phạm Phiếm và các ông Nguyễn Cảnh Chân, Đỗ Tử Mãn, Vương Khả Tuân, Dương Chương... đều là những người tài năng, đức độ và hào khí . Lê Quý Ly bèn dùng Vương Khả Tuân làm Quản lĩnh đội quân Thần Dực; Chương Dương làm Quản lĩnh đội quân Thần Dũng, nhằm tăng thêm vây cánh.
Tháng 8 năm Tân Mùi (1391) sau khi Lê Quý Ly giết chết hai viên tướng Quản lĩnh quân Hóa Châu là Phan Mãnh và Chu Bỉnh Khuê, bổ dụng Đặng Tất thay thế làm Châu phán Hóa Châu, còn Hoàng Hối Khanh làm Chánh hình viện đại phu.
Năm Mậu Dần (1398) vua Trần Thuận Tông Hoàng đế phái cử Nguyễn Cảnh Chân vào Nam làm An phủ sứ Hóa Châu (gồm các vùng từ Bình Trị Thiên Huế). Ông đến làng Ngọc Sơn, Nam Đường (thuộc Phủ Nghệ An), xứ Hoan Châu cư trú và lập căn cứ, chiêu tập lực lượng, chế tạo binh khí và huấn luyện dân binh... cùng với Đặng Tất (người Tả Thiên Lộc – Can Lộc) đang làm Châu phán Hóa Châu (Đặng Tất là thổ quan vùng Hóa Châu) chống lại quân Chiêm Thành và giặc nhà Minh. Từ đó về sau, Nguyễn Cảnh Chân cùng Đặng Tất tham gia nhiều trận đánh với quân Chiêm Thành và giặc nhà Minh dành thắng lợi, gây được uy tín và tạo ảnh hưởng lớn trong vùng. Hai ông cũng từ đó mà trở thành bạn bè chiến hữu, thân thuộc.
Cùng năm đó (1398) vua Trần Thuận Tông bị ép nhường ngôi cho con trưởng là Trần An. Hoàng tử Trần An (gọi Lê Quý Ly là ông ngoại) lên ngôi Vua xưng là Trần Thiếu Đế (mới 2 tuổi), đặt niên hiệu là Kiến Tân, phụ chính do Thái sư Lê Quý Ly lấy danh nghĩa là Quốc Tổ nhiếp chính.
Vua Trần Thiếu Đế lên ngôi được hai năm thì Lê Quý Ly tiếm quyền nhà Trần. Lúc bấy giờ, Nguyễn Cảnh Chân đang làm An phủ sứ Hóa Châu, nhưng chính quyền nhà Trần đã hoàn toàn trong tay Lê Quý Ly.
Dưới triều Nhà Hồ (1400-1407)
Năm Canh Thìn (1400), Lê Quý Ly chính thức cướp ngôi nhà Trần lập ra nhà Hồ (đổi thành Hồ Quý Ly) đặt quốc hiệu “Đại Ngu”. Không lâu sau, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con trai thứ là Hồ Hán Thương, ông lên làm Thái Thượng hoàng nhà Hồ.
Năm Nhâm Ngọ (1402), để củng cố phiên dậu phía Nam, Hồ Quý Ly cho sáp nhập 4 châu mới chiếm của Chiêm Thành gồm: Thăng-Hoa-Tư-Nghĩa đổi tên gọi “Lộ Thăng Hoa” nhằm thống nhất cả 4 châu và tiếp tục cử tướng Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa. Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất có quan hệ thân hữu, trước đó cả hai ông đều làm quan nhà Trần, lại có ảnh hưởng lớn trong vùng, nên được nhà Hồ tin cẩn và trọng dụng.
Đầu năm Bính Tuất (1406), Trần Thiêm Bình mạo xưng là con cháu nhà Trần, sang tố cáo với nhà Minh việc nhà Hồ đoạt ngôi nhà Trần. Minh Thành Tổ (tức vua Chu Đệ nhà Minh) sai quân đưa Trần Thiêm Bình về nước. Hồ Hán Thương sai Nguyễn Cảnh Chân dâng biểu "tạ tội" với nhà Minh và xin đón Thiêm Bình về tôn lên làm Chúa. Minh Thành Tổ sai hành nhân là Niếp Thông đi sứ đem tờ sắc sang dụ Hồ Hán Thương rằng:"Nếu quả đón Thiêm Bình về tôn làm Chúa, thì sẽ ban cho Khanh tước Thượng công và phong cho một quận lớn". Hồ Hán Thương tiếp tục sai Nguyễn Cảnh Chân theo Niếp Thông sang trình báo với Minh Thành Tổ về việc đón Thiêm Bình. Tuy nhiên, tháng 4 năm Bính Tuất (1406), khi quân Minh đưa Thiêm Bình trở về Đại Ngu, vua Hồ Hán Thương sai quân đón đánh, bắt được Thiêm Bình mang về chém chết.
Cuối năm Bính Tuất (1406), nhà Minh mang đại quân sang xâm lược Đại Ngu, chúng càn quét, cướp bóc, hãm hiếp dân lành, đến giữa năm Đinh Hợi (1407) nhà Hồ bị quân Minh đánh bại và sụp đổ, nhà Minh chiếm đóng và đô hộ Đại Ngu. Tuy ban đầu lấy danh nghĩa giúp nhà Trần chống nhà Hồ, nhưng khi chiếm được Đại Ngu, Minh Thành Tổ lại hạ lệnh truy lùng bắt con cháu tông thất nhà Trần và nhà Hồ, truy sát gia đình con em công thần, nhằm diệt trừ mối họa trỗi dậy “ngụy Trần và ngụy Hồ”…
Sau khi lật đổ nhà Hồ, nhà Minh đô hộ và biến Đại Ngu thành quận Giao Chỉ thuộc Trung Quốc. Hồ Quý Ly và tông thất nhà Hồ bỏ chạy vào Nam đến cửa biển Kỳ La (thuộc huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh) bị Trương Phụ và Mộc Thạnh bắt và đưa về Kim Lăng (thuộc Nam Kinh -Trung Quốc) rồi đày đọa đến chết. Riêng Hồ Nguyên Trừng (con trai cả Hồ Quý Ly) do có tài chế tạo binh khí, nên nhà Minh tha mạng chết, nhưng ép đổi tên thành “Lê Trừng” rồi trọng dụng ông, về sau làm quan lớn phong đến chức “Công bộ Thượng thư” trong triều nhà Minh.
Trong bối cảnh nhà Minh xâm lược (cuối triều Hồ), đất nước rơi vào cảnh rối ren loạn lạc, nhân dân khắp nơi bất bình căm phẫn. Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất đã kéo quân từ lộ Thăng Hoa ra Nghệ An để hợp binh chống giặc nhà Minh. Biết tin, con trai thứ 2 của ông là Nguyễn Cảnh Lữ, sinh năm Canh Thân (1380) chạy từ vùng đất Đông Triều – Quảng Ninh qua Gia Viễn – Ninh Bình theo cha về lánh nạn tại làng Ngọc Sơn, Nam Đường (Phủ Nghệ An), xứ Hoan Châu. Ông cải trang hành nghề chèo đò, bốc thuốc chữa bệnh dưới chân núi Nguộc.
Tướng quốc tham mưu và công thần ngậm oan (1407-1409)
Sau khi lật đổ nhà Hồ, chiếm được Đại Ngu, nhà Minh thực hiện nhiều chính sách đô hộ tàn bạo, truy sát các thế lực công thần nhà Hồ, nhà Trần… từ đó nhân dân Đại Việt nhiều nơi nổi dậy mong muốn giành lại độc lập, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ nổ ra trên phạm vi cả nước.
Ngày 02 tháng 10 năm Đinh Hợi (1407), Tướng quân Nguyễn Cảnh Chân cùng Đặng Tất đã suy tôn Trần Ngỗi (tức Giản Định Đế) lên làm vua, lập lại cơ nghiệp nhà Trần ở Mô Độ – Ninh Bình, đặt niên hiệu là Hưng Khánh, để lãnh đạo đất nước chống giặc Minh xâm lược.
Sau sự kiện này, Đô ty Giao Chỉ cùng Bố chính bèn tâu với Minh Thành Tổ để xin tăng viện quân và binh khí: “Bọn Giản Định Đế, Đặng Tất, Cảnh Chân, Nguyễn Súy… âm mưu nổi loạn. Bọn chúng suy tôn Trần Ngỗi làm vua đặt hiệu Hưng Khánh, chúng hoạt động chủ yếu ở vùng núi non hiểm trở ở Hoan Châu, Hóa Châu, chúng tập trung chế tạo binh khí, tụ tập đồ đảng cùng với bọn ngụy quân để đánh ta (tức giặc Minh). Lúc này đại quân đã về nước, bọn Giản Định Đế kéo quân đánh Bình Than và ải Hàm Tử, chặn đường đi lại tại Tam Giang, chúng đánh phá gần thành Giao Chỉ (tức thành Đông Đô). Các Châu huyện như: Từ Liêm, Oai Man, Thượng Hồng, Đại Đường, Ứng Bình, Thạch Thất…dân tình đều ùa theo chúng. Thế giặc ngày càng mạnh, quân ta đánh mấy lần nhưng không lập được công, nay xin tăng viện thêm quân”.
Nhận được lời đề nghị, Minh Thành Tổ bèn hạ lệnh điều thêm 4 vạn quân, sai Trương Phụ và Mộc Thạnh dẫn đại quân bao gồm lục quân tiến theo đường bộ, còn Liễu Thăng chỉ huy thủy quân tiến theo đường biển ào ạt tràn sang xâm lược nước ta. Trong cơn ly loạn, giặc Minh đã triệt phá làng mạc, đốt phá, cướp của, truy sát gia đình, anh em con cháu của giới Tướng lĩnh nhà hậu Trần và nhà Hồ ở vùng Hải Hưng, Hải Dương, Quảng Ninh ngày nay…
Năm Mậu Tý (1408) Trương Phụ điều binh khiển tướng, dồn Lục quân, Thủy quân từ nhiều hướng, tiến từ Ải Nam Quan, từ Quảng Ninh đến Bô Cô (nay thuộc huyện Ý Yên - Nam Định) nhằm tiêu diệt quân nhà Trần. Ngày 14 tháng 12 năm đó, Nguyễn Cảnh Chân cùng Đặng Tất đã mưu trí tập trung toàn lực đại phá và đại thắng quân Minh tại Bô Cô, tiêu diệt hơn 10 vạn tên địch. Nguyễn Cảnh Chân chém chết Binh bộ Thượng thư Lưu Tuấn và tên Đô Ty Lưu Nghị, còn Mộc Thạnh và Trương Phụ dẫn tàn quân chạy vào thành Cổ Lộng rồi trốn thoát về nước. Riêng tên Thổ quan Đông Tri Trần Quốc Kiệt, một tay sai của giặc Minh tẩu thoát vào rừng rồi chết đói. Quân hậu Trần đại thắng khải hoàn, nhân dân khắp nơi vui mừng hồ hởi, danh tiếng & uy tín của Nguyễn Cảnh Chân & Đặng Tất theo đó mà tăng cao.
Sau khi đại thắng quân Minh ở Bô Cô, Giản Định Đế đưa quân về đóng ở Hương Giang, huyện Ngọc Sơn, Thanh Hóa (bên bờ sông Hoàng Giang). Bọn gian thần lưu manh Nguyễn Quỹ và Nguyễn Mộng Trang ghen tỵ trước chiến công hiển hách của Nguyễn Cảnh Chân & Đẳng Tất, đã bí mật dèm pha với Vua Giản Định Đế: “Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất chuyên quyền bổ dụng người này, cắt chức người khác, nếu không liệu tính sớm, sau này khó mà chế phục được”. Vua Trần Ngỗi nghe lời, bèn cho triệu Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân đến, sai binh lính đánh chết Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân trở tay không kịp chạy lên bờ, nhà vua sai lực sỹ đuổi theo chém chết. Nguyễn Cảnh Chân mất ngày 15 tháng 02 năm Kỷ Sửu (1409) hưởng thọ 54 tuổi.
Sau sự kiện này, nhà sử thần Ngô Sỹ Liên thương tiếc cho hai ông phải thốt lên rằng: “Nhà Vua may thoát khỏi vòng vây nguy hiểm, được cha con Đặng Tất có tài làm tướng, cha con Nguyễn Cảnh Chân giỏi bày mưu lược đã lập công khôi phục, dựng được nghiệp trung hưng đất nước. Với trận đại thắng ở Bô Cô thế nước nổi lên, thế mà nghe lời dèm pha ly gián của bọn hoạn quan một lúc giết chết hai Đại tướng tài ba, chẳng khác nào tự mình chặt bỏ tay chân vây cánh của mình thì làm sao nên việc lớn và gây họa cho đất nước”.
Chính vì hành động thiếu anh minh sáng suốt này của Vua Giản Định Đế mà các bậc cận thần nhà Trần không còn tuân phục, còn các sử gia, người dân đương thời và hậu thế nguyền rủa: "Đức của người làm Vua quý ở chỗ cương quyết và sáng suốt. Cương quyết thì có thể xử đoán được, sáng suốt thì có thể xét rõ được. Than ôi, nếu lúc đó vua cho gọi hai Đại thần đến, dẫn hai đứa ấy (kẻ gièm pha) kể rõ tội gièm pha vu oan hai Đại thần rồi chém ngay chúng đi thì uy lệnh được thi hành. Đại thần Cảnh Chân & Đặng Tất dũng cảm càng tăng, cảm kích càng sâu. Giả sử có manh tâm chuyên quyền, chả lẽ không sợ uy phải tự bỏ, sợ gì khó kềm chế nữa. Vua đã không làm được như thế thì chỉ có long đong rồi chết chìm mà thôi."
Thái bảo Thụy Quốc công Nguyễn Cảnh Dị (1377-1413)
Được tin cha bị vua Giảm Định Đế giết oan (1409), Nguyễn Cảnh Dị đã cùng với Đặng Dung (tạm gác lại mối thù của cha) kéo quân từ Thuận Hóa ra Thanh Hóa nhằm diệt trừ bọn gian thần, phản loạn, bọn ngụy Minh... trong Triều đình Trần Ngỗi và rước Trần Quý Khoáng (cháu Trần Ngỗi) vào Hoan Châu tôn làm Vua.
Ngày 17 tháng 03 năm Kỷ sửu (1409) ở Chi La (nay thuộc huyện Đức Thọ – Hà Tĩnh) Trần Quý Khoáng chính thức lên ngôi Vua, đổi niên hiệu là Trùng Quang. Nhà Vua phong Nguyễn Cảnh Dị chức “Thái Bảo”, Đặng Dung chức “Đồng bình Chương sự”, Nguyễn Súy chức “Thái phó”, Nguyễn Chương chức “Tư Mã” để thống lĩnh ba quân tướng sỹ.
Do bối cảnh và nhu cầu cần phải hợp nhất hai lực lượng, các tướng của Trần Quý Khoáng do Nguyễn Súy chỉ huy đã tổ chức đánh úp vào Ngự Thiên (Nam Định) đem Trần Ngỗi về Chi La tôn làm Thượng hoàng. Dù phải chiến đấu dưới quyền người đã giết cha mình, nhưng Cảnh Dị và Đặng Dung vì sự nghiệp chung của đất nước, hai ông đã vượt lên tất cả, trước sau vẫn giữ khí tiết, phẩm hạnh của một vị tướng.
Năm Nhâm Thìn (1412), Nhà Minh tiếp tục kéo quân sang xâm lược nước ta do Trương Phụ chỉ huy, tiến quân các hướng vào Quảng Ninh, Hải Hưng, Hải Dương... Tướng quân Nguyễn Cảnh Dị và Nguyễn Súy đã thống lĩnh đại quân đánh tan quân nhà Minh ở Hòn Gai giành đại thắng.
Bị thất bại thảm hại, năm Quý Tỵ (1413) Trương Phụ phải xin cầu viện, bổ sung thêm quân và binh khí tiến quân đánh khắp nơi, sát hại cướp bóc dã man dân lành. Trong trận chiến quyết liệt ở Ái Tử, quân nhà Trần quá ít, bọn giặc Minh quá đông đã vây hãm quân nhà Trần trong nhiều ngày. Trương Phụ đã bắt được Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung. Chúng dùng mọi cực hình và mua chuộc, với khí tiết anh hùng Nguyễn Cảnh Dị đã liên tục chửi mắng vào mặt Trương Phụ: “Ta định giết mày, nào ngờ mày lại bắt được ta”, chửi Trương Phụ không ngớt lời, Trương Phụ giết chết Nguyễn Cảnh Dị (mổ bụng ăn gan) để hả lòng hả dạ vì sự thất bại thảm hại ở trận Bô Cô và trận thủy chiến ở Hòn Gai, Nguyễn Cảnh Dị đã hy sinh vào trung tuần tháng 12 năm Quý Tỵ (1413).
Sau khi ông nội (Nguyễn Cảnh Chân) và cha (Nguyễn Cảnh Dị) bị sát hại (1409 và 1413), hai người con của Đại tướng quân Nguyễn Cảnh Dị là Nguyễn Tuấn Thiện sinh năm Tân Tỵ (1401) và Nguyễn Tuấn Kiệt đã cùng mẹ chạy về trú ẩn tại làng Phúc Sơn, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Cha con Nguyễn Cảnh Lữ và Nguyễn Cảnh Luật cũng chạy qua đất Hương Sơn lánh nạn cùng với anh em họ hàng tại đây. Lúc bấy giờ giặc Minh, ngụy Minh nổi lên khắp nơi, nạn trộm cướp hoành hành, Nguyễn Tuấn Thiện vận động trai tráng trong làng thành lập đội quân Cốc Sơn để giúp bảo vệ dân làng và tiếp tục chống quân Minh. Kể từ khi ra đời, đội quân Cốc Sơn hoàn toàn làm chủ vùng Hương Sơn- Hà Tĩnh, nhân dân có cuộc sống tương đối yên lành, uy tín và tiếng tăm của thủ lĩnh Nguyễn Tuấn Thiện ngày càng tăng cao.
Kế tục sự nghiệp kháng chiến chống quân Minh của các bậc tiền bối, Lê Lợi đã hiệu triệu chiêu tập binh sỹ, thu nạp các anh hùng, lão tướng, chế tạo binh khí, tích trữ lương thảo chuẩn bị trong nhiều năm. Năm Mậu Tuất (1418) Lê Lợi chính thức dấy binh khởi nghĩa Lam Sơn, giai đoạn đầu (từ 1418 đến 1424) lực lượng mỏng yếu gặp rất nhiều khó khăn, quân Minh lại mạnh, nên hầu như thất bại trong các trận giao tranh lớn, chỉ thắng các trận đánh nhỏ.
Năm Ất Tỵ (1425) sau khi nghe lời khuyên của các công thần, Lê Lợi dẫn quân về đất Hương Sơn gặp Nguyễn Tuấn Thiện và thu nạp đội quân Cốc Sơn, cắt tóc kết nghĩa, giết ngựa trắng ăn thề dưới gốc cây thị ở xóm Nậy (thuộc xã Sơn Phúc) nguyện một lòng giết giặc cứu nước. Kể từ đó về sau, anh em Nguyễn Tuấn Thiện trở thành tướng giỏi dưới triều vua Lê Thái Tổ, được vua Lê ban quốc tính “Lê Thiện”. Người dân địa phương ở nơi đây vẫn lưu truyền những câu thơ: “Cắt tóc giết ngựa trắng - Dưới gốc thị thề nguyền - Nguyện đồng tâm đồng chí - Phá giặc xây cơ đồ”.Lịch sử chỉ lưu danh Nguyễn Tuấn Thiện (Lê Thiện) còn gia đình anh em, chú bác không chép, gia phổ thất truyền, phần mộ và đền thờ ông tại Hương Sơn – Hà Tĩnh được Nhà nước cấp chứng nhận Di tích Lịch sử Quốc gia năm 1991.
Năm Mậu Thân (1428), sau khi đánh xong giặc Minh, Lê Lợi chính thức lên ngôi vua (tức vua Lê Thái Tổ), đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) Vua Lê Thái Tổ đã truy phong cho hai danh thần Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất biển vàng tám chữ “Tiết liệt cương trung – Trung thần hiếu tử”;phong Nguyễn Cảnh Chânchức“Tổng Tham mưu quân sự”,Đặng Tất chức“Đại quốc công”, Thái Bảo Nguyễn Cảnh Dị chức “Thụy Quốc Công”, còn Đặng Dung chức “Đồng bình Chương sự” nhằm ghi nhớ công lao to lớn của các ông.
Đến triều vua Lê Thánh Tông (1442-1497) ban chiếu truy tặng Đặng Tất &và Nguyễn Cảnh Chân câu cảo "Quốc sỹ vô song, song quốc sỹ - Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng".
Vua Tự Đức triều Nguyễn (1829-1883) vịnh câu thơ trên, đồng thời truy tặng Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung bài thơ:
“Là bề tôi trung nghĩa triều Trần,
Thù cha chưa trả nợ nước còn.
Sách lược công danh chưa vẹn tròn,
Tấm lòng trung nghĩa vầng dương mộc,
Hỡi lũ giặc kia nhớ lời nguyền".
Sau khi Lê Lợi bình định xong giặc Minh (1428), các vùng từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa cơ bản được giải phóng, cha con Nguyễn Cảnh Lữ mới quay về làng Ngọc Sơn (đất cha) sau nhiều năm lánh nạn trên đất Hương Sơn – Hà Tĩnh (khoảng 14 năm từ 1414 đến 1428).
Năm Canh Tuất (1430) nhân dịp vua Lê Thái Tổ hạ chiếu truyền đi các lộ, phủ, huyện...làm hộ tịch cho dân, cha con Nguyễn Cảnh Lữ chính thức khai khẩu nhập tịch vào làng Ngọc Sơn – huyện Nam Đường – xứ Hoan Châu lấy tên là “Nguyễn Lữ” và “Nguyễn Luật”. Hai cha con ông tiếp tục hành nghề chèo đò, châm cứu và bốc thuốc chữa bệnh tại đây. Nguyễn Cảnh Lữ mất không lưu truyền được ngày-tháng-năm và nơi an táng huyệt mộ. Riêng Nguyễn Cảnh Luật trên đường đi châm cứu chữa bệnh bị hổ vồ chết bất đắc kỳ tử, nhưng không ăn thịt mà bới đất táng ông tại eo Chó Đẻ (phần Mộ thuộc làng Ngọc Sơn – Thanh Chương). Các ông là tiên tổ dòng họ Nguyễn Cảnh trên đất Thanh Chương - Nghệ An.
Đại tướng Anh hùng dân tộc Nguyễn Cảnh Chân và Nguyễn Cảnh Dị là bậc Công thần khai quốc thời hậu Trần đã tiếp nối truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của các thế hệ cha anh, có đóng góp to lớn trong lịch sử dân tộc. Ông là Thủy tổ dòng tộc họ Nguyễn Cảnh trên đất Nghệ An. Về sau, con cháu hậu duệ của ông đã nối nghiệp nhà binh từ các bậc tiên liệt, có nhiều người nổi danh được các triều đại nhà Hậu Lê và Lê Trung Hưng tôn vinh: Gồm 18 Quận Công, 76 tước Hầu, nhiều tước bá và tước hiệu, tiêu biểu cho bốn lớp trung cần, năm đời nhân nghĩa có: Phúc Khánh Quận công Nguyễn Cảnh Huy và con cháu của ông như: Phấn Võ hầu Nguyễn Cảnh Noãn; Binh bộ Thượng thư Thái phó Tấn Quốc công Nguyễn Cảnh Hoan; Trung Quận công Nguyễn Cảnh Hân; Cường Quận công Nguyễn Cảnh Vạn; Lập Quận công Nguyễn Cảnh Chiêu; Thái bảo Tả tư không Thư Quận công Nguyễn Cảnh Kiên; Tả tư mã Thắng Quận công Nguyễn Cảnh Hà; Tả Đô đốc Liêu Quận công Nguyễn Cảnh Quế... Dòng họ của ông nổi tiếng trâm anh, danh gia vọng tộc, xứng đáng với lời vịnh lưu truyền ”Cao tiền tổ khảo dị lai, Thập bát Quận Công tam Tể tướng – Đinh Lý Trần Lê dị hậu, Bách dư Tiến sỹ thất khôi nguyên”.
Đến thời đại Hồ Chí Minh có các ông: Nguyễn Cảnh Dinh, nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước; Nguyễn Cảnh Toàn - Giáo sư Toán học, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo; Nguyễn Song Tùng - nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động; Thiếu tướng Nguyễn Cảnh Hiền, nguyên phó Tư lệnh Bộ đội Biên phòng Việt Nam...
Để ghi nhớ công lao to lớn của hai danh tướng Anh hùng dân tộc Nguyễn Cảnh Chân và Nguyễn Cảnh Dị, hầu hết các thành phố trong cả nước đều có đường phố mang tên các ông. Đặc biệt gần Quảng trường Ba Đình - Hà Nội có phố Nguyễn Cảnh Chân từ thời Pháp thuộc, phố Nguyễn Cảnh Dị tại Khu đô thị Đại Kim – Quận Hoàng Mai - Hà Nội. Trên chính quê hương ông đều có tên đường và Trường THPT Nguyễn Cảnh Chân./.
* Nguồn tham khảo:
• Đại việt sử ký toàn thư
• Khâm định Việt sử Thông giám cương mục
• Thượng phổ Nguyễn Bắc
• Khoái hầu thục biên
• Nguyễn tộc thế truyền
• Hoan Châu ký, tư liệu họ Nguyễn Cảnh
• Nghệ An ký
• An tĩnh cổ lục
• Lam Sơn thực lục