(Baonghean) - Sách dày 108 trang, NXB Sự thật, Hà Nội, tháng 10/1979, tái bản 18 /7/2009. Gồm toàn bộ văn kiện quan trọng của Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam công bố ngày 04/10/1979. Sách gồm 5 phần:

Phần thứ nhất:  Việt Nam trong chiến lược của Trung Quốc

Phần thứ hai: Trung Quốc với việc kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương năm 1954.

Phần thứ ba: Trung Quốc với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà (1954-1975)

Phần thứ tư: Trung Quốc với nước Việt Nam hoàn toàn giải phóng và thống nhất (từ tháng 5 năm 1975 đến nay)

Phần thứ năm: Chính sách bành trướng của Bắc Kinh - mối đe dọa đối với độc lập dân tộc, hoà bình và ổn định ở Đông Nam châu Á.

Lần đầu tiên tôi đọc cuốn sách này vào tháng 4/1980 tại Thư viện Quốc gia, Hà Nội, đúng 1 năm sau khi cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc cơ bản đã chấm dứt. Từ bấy đến nay Trung Quốc có những thay đổi lớn lao, song có một điều mà giới cầm quyền nước này không thay đổi, đó là mục tiêu chiến lược nhanh chóng đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc bậc nhất thế giới, và mưu đồ bành trướng bá quyền nước lớn của họ đối với các nước khác, trong đó Việt Nam là mục tiêu số một họ nhắm đến.

Mấy tháng nay báo Hoàn Cầu (phiên bản của Nhân dân Nhật báo, cơ quan trung ương Đảng CS Trung Quốc) chủ động đăng tải những bài viết hằn học, sặc mùi hiếu chiến với Việt Nam, điều đó khiến tôi phải đọc lại cuốn SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA - cuốn sách duy nhất của Việt Nam công khai về sự thật của “mối quan hệ Việt - Trung”. Cuốn sách sớm cho chúng ta biết: Trong chiến lược toàn cầu, những người lãnh đạo Trung Quốc coi Liên Xô và Mỹ là những đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng, và họ coi Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục, thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ. Tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1956, Mao Trạch Đông nói: “Chúng ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển văn hoá, khoa học kỹ thuật và công nghiệp… Không thể chấp nhận rằng sau một vài chục năm, chúng ta vẫn chưa trở thành cường quốc số một trên thế giới”. Tháng 9  năm 1959, tại Hội nghị của Quân uỷ trung ương, Mao lại nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”.

Chính sách của Trung Nam Hải muốn thôn tính Việt Nam nằm trong chính sách chung của họ đối với các nước Đông Nam châu Á, cũng như đối với các nước láng giềng khác. Họ đã chiếm đất đai của Ấn Độ trong cuộc chiến tranh năm 1962; họ không muốn có một nước Ấn Độ mạnh mà họ cho rằng có thể tranh giành với họ “vai trò lãnh đạo” các nước Á - Phi. Họ vẫn mưu toan chiếm Mông Cổ, mặc dù họ đã công nhận nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ là một quốc gia độc lập. Họ muốn chiếm một phần đất đai của Liên Xô, rất không muốn có bên cạnh Trung Quốc một nước Liên Xô hùng mạnh, nên họ tìm mọi cách hạ uy thế của Liên Xô, đẩy các nước đế quốc gây chiến tranh với Liên Xô, đẩy các nước Á-Phi Mỹ la tinh chống Liên Xô. Họ tập trung mọi cố gắng để dấy lên một cuộc “thập tự chinh quốc tế” của các lực lượng đế quốc và phản động chống Liên Xô dưới chiêu bài “chống bá quyền” theo công thức của Mao “Tọa sơn quan hổ đấu”. Nhiều nhà chính trị và báo chí Tây Âu nhận định, Trung Nam Hải quyết tâm “đánh Liên Xô đến người Tây Âu cuối cùng”.

Từ việc Trung Nam Hải coi Liên Xô là kẻ thù chủ yếu, tháng 3/1969 họ gây ra xung đột biên giới với Liên Xô, đến việc phản bội Việt Nam lần thứ hai, buôn bán với Mỹ để ngăn cản thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam. Trong năm 1971, họ tiến hành “ngoại giao bóng bàn”, đón tiếp Kitxinhgơ ở Bắc Kinh, tiếp tổng thống Mỹ Nichxơn, hai bên ra Thông cáo Thượng Hải tháng 2/1972. Cũng như sau Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, sau Hiệp định Paris tháng 1 năm 1973 về Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc muốn duy trì nguyên trạng ở miền Nam Việt Nam. “Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc” của chủ tịch Mao viết năm 1939, tái bản tháng 6/1949, có đoạn: “Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Nêpan và Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam…”.

Thắng lợi của nhân dân Việt Nam năm 1975 lật nhào chính quyền tay sai của Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, sự kiện này không chỉ là một thất bại lớn của đế quốc Mỹ, mà còn là một thất bại lớn của những người cầm quyền Bắc Kinh trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu và mưu đồ bành trướng, bá quyền của họ. Từ đó, họ công khai thi hành chính sách thù địch chống Việt Nam, kể cả bằng biện pháp quân sự. Đông Nam châu Á là hướng bành trướng cổ truyền trong lịch sử Trung Quốc, là khu vực mà từ lâu các tập đoàn bành trướng Trung Nam Hải khao khát thôn tính.

Năm 1963, trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán, Mao Trạch Đông so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, về diện tích thì tương đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan để ở; đối với nước Lào đất rộng người thưa, Mao cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để ở. Tháng 8/1965 Mao còn khẳng định: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapore… Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô - Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”.

Trong 30 năm qua (tính đến năm 1979), Trung Nam Hải đã dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện chính sách bành trướng ở khu vực Đông Nam châu Á. Họ xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược, phát triển lực lượng kinh tế, ỷ thế nước lớn, đe doạ bằng quân sự và hứa hẹn viện trợ về kinh tế để mua chuộc, lôi kéo hoặc gây sức ép với các nước ở khu vực này, hòng làm cho các nước đó phải đi vào quỹ đạo của họ. Họ xâm phạm lãnh thổ các nước và gây ra xung đột biên giới, dùng lực lượng tay sai hoặc trực tiếp đem quân xâm lược, hòng làm suy yếu để dễ bề khuất phục, thôn tính nước này, nước khác trong khu vực. Họ không từ bất kỳ một hành động tàn bạo nào, như họ đã dùng tập đoàn Pônpốt- Iêngxary thực hiện chính sách diệt chủng ở Campuchia. Họ dùng nhiều công cụ ở các nước Đông Nam châu Á: lực lượng Hoa kiều làm “đạo quân thứ năm”, các tổ chức gọi là “cộng sản” theo mệnh lệnh của Bắc Kinh, các dân tộc thiểu số ở các nước thuộc khu vực này có ít nhiều nguồn gốc dân tộc ở Trung Quốc để phục vụ cho chính sách bành trướng và bá quyền của họ. 

Việt Nam có một vị trí chiến lược ở Đông Nam châu Á. Trong lịch sử, các chính quyền phong kiến Trung Quốc đã nhiều lần xâm lược hòng thôn tính  Việt Nam, dùng Việt Nam làm bàn đạp để xâm lược các nước khác ở Đông Nam châu Á. Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, trong các đảng cộng sản ở khu vực này chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam giành được chính quyền và thành lập Nhà nước công nông đầu tiên trong khu vực. Cách mạng Việt Nam có ảnh hưởng to lớn do đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Những người lãnh đạo Trung Quốc âm mưu nắm Việt Nam để nắm toàn bộ bán đảo Đông Dương, mở đường đi xuống Đông Nam châu Á. Trong cuộc gặp giữa đại biểu bốn đảng cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, Inđônêxia và Lào tại Quảng Đông tháng 9/1963, Chu Ân Lai nói: “Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam châu Á”.

Cuốn sách cho chúng ta thấy, để làm suy yếu và nắm lấy Việt Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết, chia rẽ ba nước Đông Dương với nhau, đặc biệt là chia rẽ Lào và Campuchia với Việt Nam.


GIAO HƯỞNG