(Baonghean) - Khi nghe tôi hỏi vì sao Helena chọn Cửa Lò là điểm đến trong kỳ nghỉ hè năm nay, cô sinh viên người Pháp trả lời rất hồn nhiên: “Vì Cửa Lò là thiên đường du lịch”. Ban đầu tôi cứ nghĩ cô bé này nói hơi quá và chỉ mang tính ngoại giao, vì Helena biết tôi là người địa phương (!?). Thế nhưng, sau gần một tuần cùng đi giúp gia đình Helena khám phá Cửa Lò, tôi đã bị thuyết phục.
Helena cho biết, ông ngoại của cô nguyên là một bác sĩ, từng làm việc ở Vinh, một trung tâm công nghiệp của Nghệ An trong thời kỳ cả Đông Dương còn là thuộc địa của Pháp. Ngay từ những ngày thơ ấu, Helena thường được nghe ông ngoại kể về Việt Nam, về thị xã Vinh và biển Cửa Lò. Hình ảnh một bãi biển cát trắng mịn màng như dải lụa mềm và nước biển trong vắt đến mức khi lội ra xa nước ngập đến cổ, nhìn xuống vẫn thấy rõ hai bàn chân và những con cá bơi tung tăng xung quanh đã gây ấn tượng mạnh trong tâm trí của cô bé. Helena biết rằng ông ngoại của cô từng có tình cảm và những kỷ niệm sâu sắc với một cô gái ở Cửa Lò. Năm 1991, Helena và cả gia đình đã được ông ngoại đưa sang Việt Nam du lịch, trong chuyến đi 10 ngày đó, gia đình cô chỉ ở TP HCM 1 ngày, ở Hà Nội 2 ngày và dành cả một tuần còn lại với Cửa Lò. Ông ngoại cô đã cố gắng tìm lại cô gái ngày xưa, nhưng đó chỉ là chuyện mò kim đáy bể.
“Lúc đó tôi chỉ mới 4 tuổi – Helena kể, và Cửa Lò còn hoang vắng chứ chưa sầm uất như bây giờ. Dọc cả chiều dài bờ biển duy nhất chỉ có một con đường nhựa nhỏ chạy giữa rừng phi lao bạt ngàn và những trảng cát trắng muốt. Số lượng nhà nghỉ, hàng ăn có thể đếm được trên đầu ngón tay. Quả thật tôi không ngờ ông ngoại lại đưa chúng tôi đến một nơi vắng vẻ như thế, nhưng tôi và anh Francois lại rất thích thú vì điều đó. Chúng tôi thường chạy ra bãi biển vào những sáng sớm để ngắm cảnh bình mình và chứng kiến thủy triều xuống để lại cả một “cánh đồng cát” mênh mông với cơ man nào là vỏ ốc xinh xắn cho chúng tôi tha hồ nhặt mang về làm kỷ niệm. Anh Francois lại đặc biệt thích thú khi xem những ngư dân kéo lưới bắt cá vào những sáng tinh mơ, ngoài ra anh ấy cũng chỉ tắm biển vào buổi sáng khi mặt biển yên lặng nhất, trong khi ông ngoại và cả gia đình tôi đều thích tắm buổi chiều để đùa giỡn với những con sóng dập dềnh êm ái…
Nhưng chỉ sau chưa đầy 20 năm, Cửa Lò đã thay đổi như một phép màu, y như trong chuyện cổ tích. Tôi có cảm giác chỉ sau một đêm, giữa rừng phi lao cát trắng dọc bãi biển thần tiên này bỗng mọc lên một thành phố sầm uất. Ngày hôm qua, khi vừa đặt chân đến không chỉ tôi mà cả gia đình đều rất ngỡ ngàng trước sự thay đổi đó. Điều kỳ diệu nhất là trước tốc độ đô thị hóa chóng mặt đó, chính quyền và người dân ở đây vẫn giữ được cho Cửa Lò một môi trường sạch sẽ, nước biển vẫn trong xanh và những sáng tinh mơ tôi vẫn được đi dạo bộ dọc “cánh đồng cát” để nhặt những chiếc vỏ ốc xinh xắn và xem ngư dân kéo lưới. Tất nhiên bây giờ Cửa Lò đã là một đô thị hiện đại với hàng trăm nhà hàng, khách sạn tiện nghi và những điểm vui chơi giải trí. Thế nhưng tôi e rằng…”
Ảnh: giadinh.vn
Cô sinh viên đang theo học ngành Văn hóa phương Đông này sợ tốc độ đô thị hóa và cơ chế thị trường hiện nay sẽ làm cho Cửa Lò đánh mất dần những bản sắc truyền thống. Tôi bảo Helena rằng cô rất may mắn khi chọn thời điểm đến du lịch Cửa Lò vào đúng dịp 30/4, bởi vì đó là thời điểm diễn ra Lễ hội, chỉ vài ngày nữa thôi là sẽ khai mạc và cô sẽ được chứng kiến những hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc truyền thống kéo dài liên tục trong 3 ngày.
Trong lúc chờ đợi ngày khai mạc Lễ hội du lịch, tôi dẫn Helena và gia đình cô đi tham quan đảo Lan Châu, đảo Ngư, kể cho họ nghe câu chuyện truyền thuyết “Nàng Tố Nương mỏi mắt trông chồng”. Bố mẹ Helena đặc biệt rất thích ngôi chùa trên đảo Ngư, hai ông bà quyết định ở lại suốt cả buổi chiều trên đảo và ngồi hàng giờ đồng hồ dưới tán cây lộc vừng hơn 700 năm tuổi để ngắm cảnh chùa không biết chán. Sau một lúc đi dạo trên đảo ngắm cảnh biển, cô lại vào ngôi chùa say mê xem xét các văn tự, kiến trúc của ngôi chùa, liên tục ghi ghi chép chép.
Chưa thỏa mãn ở đó, ngày hôm sau Helena tiếp tục bảo tôi dẫn đến chùa Lô Sơn, đền Nguyến Xí, đền Vạn Lộc và vào thăm nhà của những ngư dân làng chài, cô còn tìm hiểu rất kỹ về cách chế biến các món ăn đặc sản của Cửa Lò như cháo nghêu, mọc cua bể, các món làm từ mực, cá giò… Tôi nói đùa: “Cô tranh thủ đi nghiên cứu chứ đâu phải đi du lịch?” Helena cười bảo: “Đi du lịch là để khám phá, tìm hiểu thì mới thú vị, nếu đi du lịch chỉ để nghỉ ngơi, thư giãn thì chỉ vài ngày là chán”.
Helena ngậm ngùi: “Tiếc rằng ông ngoại của tôi đã mất nên không thể có mặt trong chuyến du lịch lần này để chứng kiến những thay đổi tuyệt vời của Cửa Lò. Ông ngoại của tôi chính là một trong những người khai phá tiềm năng du lịch của vùng đất này đấy. Cuốn sổ tay của ông ghi chép rất nhiều về Việt Nam nói chung và Nghệ An, Cửa Lò nói riêng. Tôi yêu thích văn hóa phương Đông cũng là do bắt nguồn từ những trang viết và lời kể của ông về Việt Nam”.
Tôi chợt nhớ, có tờ báo tiếng Pháp phát hành đầu thế kỷ 20 đã viết: “Trung kỳ có nhiều bãi biển hấp dẫn và không khí trong lành như Nha Trang, Cửa Tùng, Cửa Lò. Đã có rất nhiều người Pháp chọn làm nơi nghỉ mát”. Một số tài liệu của người Pháp còn liệt kê rõ những khu du lịch nghỉ mát ở Đông Dương, trong đó Cửa Lò được xếp hạng cùng Đà Lạt, Sa Pa, Tam Đảo, Sầm Sơn, Vũng Tàu, Nha Trang… Văn bản ký ngày 06/06/1907 của Toàn quyền Đông Dương về việc cho phép sử dụng vùng đất Cửa Lò làm khu nghỉ mát đã được chính quyền thị xã hiện nay lấy làm cơ sở cho ngày truyền thống du lịch Cửa Lò, bởi từ văn bản đó người Pháp đã cho mở rộng đường sá, xây những khách sạn đầu tiên ở nơi đây…
Khi nghe tôi giới thiệu những thông tin trên, Helena rất chăm chú lắng nghe, cô ghi chép các số liệu và tỏ ra rất vui. Cuối cùng cô bảo: “Thiên nhiên và con người Cửa Lò thật tuyệt vời. Thân thiện và mến khách, đến đây tôi có cảm giác như ngôi nhà của mình. Chắc chắn tôi sẽ còn trở lại Cửa Lò rất nhiều lần nữa”.