Ông Giáo làng
Ngày ấy ông Phạm Viết Chính làm nghề “gõ đầu trẻ”, từ cái tên gắn với nghề đã trở thành tên gọi của cả ông và vợ cả: Ông bà Giáo.
Ông giáo Phạm Viết Chính sinh năm 1900 (mất năm 1960) trong một gia đình khá giả của làng Đông Sơn, tổng Nam Kim, vốn thông minh đĩnh ngộ và được cha mẹ cho học hành đến nơi đến chốn.
Người làng còn kể, ông Giáo gần như là người hiếm hoi trong vùng có chiếc xe đạp đầu tiên. Mỗi lần ông đi xe đạp, ngang qua các bà đi chợ đang gồng gánh nặng vai trong làng, ông đều dừng xe, dắt qua các bà một đoạn xa mới bắt đầu lên xe để đi. Ông cũng là người có cái tủ sách lớn nhất vùng, trong đó có rất nhiều sách tiếng Pháp, có thể là những cuốn tiểu thuyết. Tiếc là những năm lũ về, khi cả nhà phải đùm nắm lên núi trú lũ, tủ sách dần vơi cạn do thất lạc, mất mát, hư hại.
Và đã nhắc về ông Giáo, thì không thể không nhắc đến bà Giáo. Cả đời, chồng đi miết với cái chữ, là việc gia đình một tay bà ấy chèo chống, không chỉ nuôi con mình, nuôi cả những đứa cháu, nuôi dạy cả con bà vợ thứ. Cả tổng này, ai cũng cho rằng, bà Giáo là một người phụ nữ vô cùng đặc biệt. Không chỉ bởi bà duyên dáng, khéo léo, nhân hậu, biết thu vén đâu, mà bà ấy lại là người lặn lội cắp nón đi… hỏi vợ 2 cho chồng”.
Hai người vợ thọ trên 100 tuổi
Bà Giáo tên thật là Hà Thị Gấm, sinh cho ông Giáo 5 người con trong đó có 3 người con gái và 2 người con trai. Chẳng may 2 người con trai và một con gái mất sớm. Bà bàn tới bàn lui với ông Giáo, hay là ông đi tìm hiểu xem có ai thuận mắt, thuận lòng, ông cưới về làm lẽ? Ông Giáo nhất quyết không chịu.
Bỏ qua những ghen tuông thường tình, bà chăm sóc, bảo ban “người mới”, và sau đó lần lượt những người con của bà vợ thứ ra đời. Thương yêu, chăm sóc con mình, 2 đứa cháu con của anh trai ông Giáo, cùng 3 người con trai của bà Dị như nhau nên con cháu trong nhà lúc nào cũng xem bà Giáo là người mẹ lớn. Sau này, bà Giáo ốm, người cháu được cưu mang trong gia đình hồi nhỏ đã bỏ việc cả 3 tháng trời từ Hà Nội về chăm sóc bà.
Bà Giáo may vá khéo, và nổi tiếng là người làm tương ngon nhất vùng. “Tương bà Giáo làm ra bao giờ cùng có màu sẫm đỏ, chứ không trắng bợt hoặc thâm nâu. Hạt tương không nát, nước ngọt lịm tự nhiên, khi ăn không cần pha chế thêm gì nữa. Bà trồng dâu, dâu lúc nào cũng xanh mướt. Tằm bà nuôi nhiều nhất xóm.
Khi có con trai, bà hai cũng nhiều lúc “làm bộ” với bà Giáo, nhưng bà Giáo vẫn một mực nhường nhịn, hiền lành. Riêng con cái trong nhà, nhìn mẹ cả như vậy nên chúng cũng thương yêu nhau không hề có sự phân biệt là con ai. Rồi khi ông Giáo mất sớm (1960) thì 2 bà vẫn sống với nhau dưới một mái nhà, bà Giáo mất năm 100 tuổi, còn bà Dị mới mất gần đây, thọ 103 tuổi”- ông Phạm Viết Thanh, người xóm 8 Khánh Sơn kể lại.
Chị Phạm Thị Bình (hiên sinh sống tại thành phố Vinh) là cháu ngoại của ông bà Giáo vẫn còn nhớ bà mình dù tuổi đã cao nhưng luôn quen tay làm lụng, sắp xếp cửa nhà tươm tất, may vá khéo léo và dạy con cháu giữ lấy nếp nhà. Bà luôn nói, làm gì đi đâu, ứng xử thế nào cũng hãy nhớ mình là cháu ông Giáo. Làm con người, cố gắng đừng “ăn trước trả sau”, “khôn từ ý lượng khôn ra”.