Theo Bộ Công Thương, Dự thảo Thông tư được đưa ra lấy ý kiến phục vụ cho việc ghi nhãn hàng hóa và tiếp thị hàng hóa lưu thông trên thị trường Việt Nam.
Vậy khi nào hàng hóa được coi là hàng hóa của Việt Nam? Điều 7 Dự thảo Thông tư quy định, đó là khi hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam theo quy định (cây trồng và các sản phẩm từ cây trồng được trồng và thu hoạch tại Việt Nam; động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại Việt Nam…).
Tiếp đó là hàng hóa có xuất xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam nhưng trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng tại Việt Nam làm thay đổi cơ bản tính chất của hàng hóa theo quy định (đáp ứng tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa, hàm lượng giá trị gia tăng…).
Dự thảo Thông tư cũng quy định rõ 2 trường hợp không được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam: Trước hết, là hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và lưu thông trên thị trường Việt Nam. Thứ hailà hàng hóa tạm nhập vào Việt Nam để tái xuất, hàng hóa chuyển khẩu, quá cảnh Việt Nam không được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam trên nhãn hàng hóa và/hoặc trên bất kỳ tài liệu, vật phẩm nào chứa đựng thông tin liên quan đến hàng hóa đó.
Dự thảo Thông tư cũng đưa ra 7 trường hợp cụ thể đối với hàng hóa không được coi là hàng hóa của Việt Nam nếu chỉ trải qua một hoặc kết hợp nhiều công đoạn. Điển hình như: Các công việc bảo quản hàng hóa trong quá trình vận chuyển và lưu kho (thông gió, trải ra, sấy khô, làm lạnh, ngâm trong muối, xông lưu huỳnh hoặc thêm các phụ gia khác, loại bỏ các bộ phận bị hư hỏng và các công việc tương tự); các công việc như lau bụi, sàng lọc, chọn lựa, phân loại (bao gồm cả việc xếp thành bộ), lau chùi, sơn, chia cắt ra từng phần; thay đổi bao bì đóng gói và tháo dỡ hay lắp ghép các lô hàng…
Dự thảo Thông tư cũng quy định rõ 2 trường hợp không được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam: Trước hết, là hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và lưu thông trên thị trường Việt Nam. Thứ hailà hàng hóa tạm nhập vào Việt Nam để tái xuất, hàng hóa chuyển khẩu, quá cảnh Việt Nam không được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam trên nhãn hàng hóa và/hoặc trên bất kỳ tài liệu, vật phẩm nào chứa đựng thông tin liên quan đến hàng hóa đó.
Dự thảo Thông tư cũng đưa ra 7 trường hợp cụ thể đối với hàng hóa không được coi là hàng hóa của Việt Nam nếu chỉ trải qua một hoặc kết hợp nhiều công đoạn. Điển hình như: Các công việc bảo quản hàng hóa trong quá trình vận chuyển và lưu kho (thông gió, trải ra, sấy khô, làm lạnh, ngâm trong muối, xông lưu huỳnh hoặc thêm các phụ gia khác, loại bỏ các bộ phận bị hư hỏng và các công việc tương tự); các công việc như lau bụi, sàng lọc, chọn lựa, phân loại (bao gồm cả việc xếp thành bộ), lau chùi, sơn, chia cắt ra từng phần; thay đổi bao bì đóng gói và tháo dỡ hay lắp ghép các lô hàng…