Trĩ là một bệnh mạn tính thường gặp. Bệnh do các tĩnh mạch trực tràng, hậu mô bị sa giãn và sung huyết tạo thành búi.

Cây thiên lý - Cách trị bệnh trĩ từ dân gian

Tùy theo vị trí tĩnh mạch trực tràng và hậu môn mà phân ra trĩ nội hay trĩ ngoại. Người bệnh trĩ thường có cảm giác bứt rứt khó chịu, trường hợp nặng, mắc bệnh lâu ngày người mệt mỏi, sức khỏe giảm sút.

Nguyên nhân cơ chế bệnh sinh theo Đông y là do tạng phế và đại trường thông nhau mà hậu môn thuộc về đại trường, tạng phế mạnh thì khí đầy đủ, nếu hư yếu thì hàn khí không thu liễm lại được làm cho trực tràng lòi ra, đại trường nóng cũng có thể thoát ra.

Một nguyên nhân nữa là do ăn uống không điều độ, dùng rượu quá mức, ăn nhiều thức ăn béo, ngồi lâu, ít vận động làm cho thấp tụ lại, mót đi tiêu mà không đi ngay, hoặc táo bón, rặn nhiều, dương minh phủ không điều hòa, quan lạc bị bế tắc, phong nhiệt không lưu thông mà gây nên bệnh.

Tùy theo thể bệnh và mức độ bệnh tật mà có phương pháp điều trị thích hợp kể cả việc can thiệp ngoại khoa để loại bỏ búi trĩ. Xin giới thiệu một số bài thuốc Đông y để điều trị bệnh này.

Theo kinh nghiệm dân gian dùng một trong những phương sau:

- Nhân hạt gấc (mộc miết tử) 40 g, giã nát trộn với một ít giấm thanh rồi bọc vào vải đắp vào nơi búi trĩ.

- Lá muống biển, lá dây đau xương, thêm củ sả, một ít vỏ dừa đốt lên lấy khói xông vào nơi trĩ.

- Lá thiên lý non hoặc loại bánh tẻ 100g, đem rửa sạch giã nhỏ trộn với 10 g muối, thêm 300 ml nước cất, lọc qua vải gạc, rồi tẩm bông băng vào vết trĩ sau khi đã rửa sạch bằng thuốc tím, ngày 1-2 lần, làm trong vài ba ngày.

- Diếp cá 50 g sắc đặc uống ngày 2 lần, bã còn lại dùng đắp vào búi trĩ.

- Xà sàng tử 40 g, cam thảo 40 g, tán thành bột trộn đều, ngày uống 9 g chia làm 3 lần. Đồng thời nấu nước xà sàng tử xông và rửa.

Hoặc dùng một trong các bài thuốc sau:

Bài 1: Hòe hoa 20 g, kinh giới 40 g, chỉ xác 20 g, ngải cứu 40 g, phèn chua 12 g. Cho vào nồi dùng lá chuối bọc kín, đem đun sôi độ 10 phút, chọc một lỗ thủng xông trực tiếp vào chỗ trĩ. Khi nguội dùng nước đó ngâm rửa, ngày hai lần.

Bài 2: Bạch chỉ 12 g, mộc qua 18 g, sinh bạch phàn 9 g, rau sam 60 g, ngũ bội tử 30 g, xuyên tiêu 12 g, hòe hoa 30 g, cam thảo 12 g. Sắc lấy nước dùng xông rồi rửa nơi đau.

Bài 3: Nếu trĩ thoát ra bên ngoài, sưng đau dùng minh phàn 30 g, đại hoàng 20 g, huyền minh phấn 30 g, sắc lấy nước ngâm rửa trong 15 phút, ngày 2 lần liên tục trong 3-4 ngày búi trĩ sẽ tiêu.

Thuốc uống

- Trường hợp trĩ nội xuất huyết có khi thành giọt, màu đỏ sắc tươi, họng khô, miệng khát do nhiệt ủng, huyết ứ phải hành huyết, tán ứ, lương huyết, chỉ huyết.

Bài 1: Nụ hòe 50 g, tam lăng 40 g, chỉ thực 40 g, tam thất 10 g, thiến thảo 40 g. Sắc uống ngày một thang chia làm 3 lần.

Bài 2: Sinh địa 20 g, đương quy 12 g, xích thược 12 g, hoàng cầm 12 g, địa du 12 g, hòe hoa 12 g, kinh giới 12 g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 3: Sinh địa 12 g, bạch thược 12 g, trắc bá diệp 12 g, hắc chi ma 12 g, đương quy 8 g, xuyên khung 8 g, hòe hoa 8 g, đào nhân 8 g, chỉ xác 9 g, đại hoàng 4 g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 4: Nếu thiên về huyết nhiệt phải lương huyết, chỉ huyết, tán ứ và lý khí. Dùng khổ sâm 10 g, hòe hoa 10 g, tiểu kế 10 g, sa nhân 10 g, ô tặc cốt 10 g, cam thảo 10 g, địa du 10 g, bồ công anh 20 g, bạch đậu khấu 10 g, bối mẫu 10 g, lá sen 10 g, tam thất bột 3 g. Sắc uống ngày một thang.

- Trường hợp trĩ ngoại bị viêm nhiễm do thấp nhiệt, hậu môn sưng đỏ, đau, táo bón, nước tiểu đỏ, phải thanh nhiệt, lợi thấp, hoạt huyết, giảm đau.

Bài 1: Hoàng liên 12 g, hoàng bá 12 g, xích thược 12 g, trạch tả 12 g, sinh địa 16 g, đào nhân 8 g, đương quy 8 g, đại hoàng 8 g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 2: Hòe hoa 12 g, trắc bá diệp 12 g, địa du 12 g, chi tử sao đen 12 g, kinh giới sao đen 16 g, kim ngân hoa 16 g, chỉ xác 8 g, xích thược 8 g, cam thảo 4 g. Sắc uống ngày một thang chia 2 lần.

- Trường hợp người lớn tuổi, trĩ ra máu lâu ngày gây thiếu máu, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, sắc mặt trắng, rêu lưỡi trắng, mỏng, người mệt mỏi, hơi thở ngắn, tự ra mồ hôi, thuộc thể khí huyết lưỡng hư, phải bổ khí huyết, thăng đề, chỉ huyết. Dùng phương “Bổ trung ích khí": Nhân sâm 12 g, đương quy 10 g, bạch truật 12 g, cam thảo 10 g, hoàng kỳ 24 g, trần bì 12 g, sài hồ 12 g, thăng ma 12 g. Sắc uống ngày một thang.

Tùy theo tình trạng bệnh tật và sức khỏe người bệnh, có thể kết hợp vừa dùng thuốc uống tác động toàn thân vừa điều trị tại chỗ sẽ cho kết quả tốt hơn.

Theo Sức khỏe và Đời sống