Bạch thược là cây được di thực vào Việt Nam từ lâu và trồng nhiều ở Sa Pa. Nó có vị hơi chua, tính ấm, vào tâm, can, tỳ, phế chủ trị dùng chữa ngoại cảm, tả, lỵ, phong nhiệt.
Bạch thược người ta dùng rễ làm thuốc, nên chọn thứ to, mập bằng đầu ngón tay, dài 10 - 15cm, thịt trắng hồng, ít xơ, thái lát mới dùng, thứ nhỏ, lõi đen, sẫm là không tốt.
* Trị phụ nữ hông sườn hay bị đau do can khí uất: Bạch thược, diên hồ sách, nhục quế, hương phụ tán bột, mỗi lần uống 8g với nước ấm.
* Trị cơ co giật: Bạch thược, cam thảo mỗi thứ 16g, sắc uống.
* Trị doanh khí thương tổn, khí nghịch sốt không giảm: Bạch thược 160g, chích thảo 120g, sắc uống.
* Trị âm hư khí uất mà không sốt: Cam thảo 4,8g, hương phụ 30g, phiến cầm 6g, thược dược 38g, thương truật 16g, tán bột, làm hoàn, mỗi lần dùng 10g uống với nước nóng
* Trị can âm bất túc gây ra đầu váng, hoa mắt, tai ù, cơ run giật, chân tay tê: Bạch thược, táo nhân 20g, đương quy, thục địa 16g, mạch môn 12g, xuyên khung, mộc qua 8g, cam thảo 4g, sắc nước uống.
* Trị băng lậu, hạ huyết, rong kinh, ốm yếu gầy mòn: Bạch thược, thục địa, can khương, quế tâm, long cốt, mẫu lệ, hoàng kỳ, lộc giác giao, mỗi thứ 8g, tán bột uống mỗi lần 8g, ngày 3 lần với rượu nóng trước khi ăn hoặc uống với nước sôi.
AloBacsi.vn