Bạch thược là cây được di thực vào Việt Nam từ lâu và trồng nhiều ở Sa Pa. Nó có vị hơi chua, tính ấm, vào tâm, can, tỳ, phế chủ trị dùng chữa ngoại cảm, tả, lỵ, phong nhiệt.

images933660_4.jpg
Bạch thược người ta dùng rễ làm thuốc, nên chọn thứ to, mập bằng đầu ngón tay, dài 10 - 15cm, thịt trắng hồng, ít xơ, thái lát mới dùng, thứ nhỏ, lõi đen, sẫm là không tốt.
 
* Trị phụ nữ hông sườn hay bị đau do can khí uất: Bạch thược, diên hồ sách, nhục quế, hương phụ tán bột, mỗi lần uống 8g với nước ấm.
 
* Trị cơ co giật: Bạch thược, cam thảo mỗi thứ 16g, sắc uống.
 
* Trị doanh khí thương tổn, khí nghịch sốt không giảm: Bạch thược 160g, chích thảo 120g, sắc uống.
 
* Trị âm hư khí uất mà không sốt: Cam thảo 4,8g, hương phụ 30g, phiến cầm 6g, thược dược 38g, thương truật 16g, tán bột, làm hoàn, mỗi lần dùng 10g uống với nước nóng
 
* Trị can âm bất túc gây ra đầu váng, hoa mắt, tai ù, cơ run giật, chân tay tê: Bạch thược, táo nhân 20g, đương quy, thục địa 16g, mạch môn 12g, xuyên khung, mộc qua 8g, cam thảo 4g, sắc nước uống.
 
* Trị băng lậu, hạ huyết, rong kinh, ốm yếu gầy mòn: Bạch thược, thục địa, can khương, quế tâm, long cốt, mẫu lệ, hoàng kỳ, lộc giác giao, mỗi thứ 8g, tán bột uống mỗi lần 8g, ngày 3 lần với rượu nóng trước khi ăn hoặc uống với nước sôi.
 
AloBacsi.vn